Khi cuộc bầu cử tổng thống Mỹ chỉ còn hơn một tháng nữa, ông Biden và nhóm của ông giống như những người ngoài cuộc, không muốn hoặc không thể kiềm chế một đồng minh mà họ vẫn tiếp tục ủng hộ về mặt chính trị và cung cấp hỗ trợ quân sự quan trọng.

Nga, Mỹ, Israel đứng đầu xếp hạng các lực lượng quân đội mạnh nhất thế giới

Liên bang Nga đứng đầu trong bảng xếp hạng các lực lượng quân đội mạnh nhất thế giới năm 2024 của tạp chí phân tích “U.S. News and World Report"; tiếp đó là Mỹ và Israel.

Binh sỹ Nga tham gia cuộc tập trận chung giữa lực lượng vũ trang Nga và Belarus ở gần thành phố Baranovichi (Belarus). (Ảnh: AFP/TTXVN)

Theo phóng viên tại Moskva, Liên bang Nga đứng đầu trong bảng xếp hạng các lực lượng quân đội mạnh nhất thế giới năm 2024 của tạp chí phân tích “U.S. News and World Report.”

Mỹ và Israel lần lượt đứng thứ 2 và thứ 3 trong bảng xếp hạng này. Bảng xếp hạng đánh giá về sức mạnh quân sự của các nước dựa trên sự kết hợp các chỉ số, bao gồm số lượng binh sỹ, trình độ công nghệ vũ khí cũng như các nguồn lực kinh tế và chiến lược.

Đứng thứ 4 và thứ 5 trong xếp hạng này là Trung Quốc và Hàn Quốc, những nước đã tăng cường lực lượng quân đội trong những năm gần đây, tiếp đến là Iran (thứ 6) và Anh (thứ 7), thể hiện tiềm lực quân sự ổn định.

Ukraine dù gặp khó khăn, nhưng vẫn đứng ở vị trí thứ 8, phản ánh những nỗ lực đáng kể trong việc tăng cường lực lượng vũ trang. Hai nước còn lại trong top 10 là Đức và Thổ Thĩ Kỳ.

Danh sách trên cũng bao gồm các quốc gia khác có tiềm năng quân sự đáng kể. Pháp, Ấn Độ và Nhật Bản lần lượt được xếp ở các vị trí thứ 11, 14 và 16.

Ngoài các cường quốc quân sự lớn, danh sách này còn gồm các nước có sức mạnh quân sự và ảnh hưởng chiến lược đã tăng lên đáng kể trong những năm gần đây như Kazakhstan đứng thứ 22 và Serbia đứng thứ 18./.

Chìa khóa đích thực cho chính sách Israel của Washington là sự hậu thuẫn lâu dài và rộng lớn của công chúng Mĩ nói chung dành cho quốc gia Do Thái.

Ngày 12 tháng Năm năm 1948, trước nội các chia rẽ của Tổng thống Harry Truman, Clark Clifford, luật sư trưởng của Nhà Trắng, đưa ra những lí lẽ biện hộ cho việc Hoa Kì công nhận quốc gia Do Thái. Với sự chứng kiến của một George Marshall, bộ trưởng ngoại giao lườm lườm đôi mắt và một Robert Lovett, thứ trưởng của Marshall đầy vẻ hoài nghi, Clifford lí giải rằng việc công nhận quốc gia Do Thái sẽ là một hành động nhân đạo phù hợp với những giá trị truyền thống của Mĩ. Để chứng minh cho quyền đòi lãnh thổ của người Do Thái, Clifford đã trích dẫn Đệ nhị Luật của Cựu ước (Deuteronomy): “Đây, ta trao đất đó cho các ngươi, hãy vào và chiếm hữu đất mà Đức Chúa đã thề với cha ông các ngươi, là Áp-ra-ham, I-xa-ác và Gia-cóp, rằng Người sẽ ban cho họ và dòng dõi họ sau này.” [1]

Marshall không được thuyết phục cho lắm và đã nói thẳng với Truman rằng ông sẽ bỏ phiếu chống lại vị tổng thống này trong kì bầu cử tới nếu đây là chính sách của ông ta. Nhưng cuối cùng, Marshall đồng ý không công bố sự chống đối của mình. Chỉ hai ngày sau đó, Hoa Kì thật sự công nhận tân quốc gia Do Thái, 11 phút sau khi Israel tuyên bố sự hiện hữu của mình như một quốc gia. Nhiều quan sát viên, trong cũng như ngoài nước Mĩ, gán ghép quyết định của Truman với quyền lực của cộng đồng Do Thái tại Hoa Kì. Họ cho rằng lá phiếu và ảnh hưởng báo đài của người Do Thái, cũng như những đóng góp tài chánh của họ vào quĩ vận động tranh cử là trọng yếu trong cuộc chạy đua sát nút vào Nhà Trắng năm 1948.

Kể từ đó về sau, lối lí giải này cứ thế mà được lặp đi lặp lại. Những chuyên gia khả kính về chính sách đối ngoại của Mĩ thường kêu gọi Washington cần phải thận trọng với vùng Trung Đông và từng cảnh báo nhiều vị tổng thống rằng sự hậu thuẫn quá đáng dành cho Israel sẽ gây tổn thất nghiêm trọng cho Hoa Kì trên trường quốc tế. Khi các tổng thống Mĩ gạt bỏ chuyên gia tư vấn qua một bên để đi theo một lập trường thân-Israel, nhiều nhà quan sát bèn gán ghép động thái này cho nhóm vận động hành lang của Israel và cứ thế mà khen (hay chê) nhóm này vì đã lay chuyển được người đứng đầu ngành hành pháp. Tuy nhiên, còn có một yếu tố khác cần được xét đến. Như người viết tiểu sử cho Truman là David McCullough đã ghi nhận, sự hậu thuẫn mà Truman dành do quốc gia Do Thái “được nhiệt liệt hoan nghênh” trên toàn nước Mĩ. Một cuộc thăm dò ý kiến của Gallup tháng Sáu năm 1948 cho thấy rằng số người Mĩ “đồng tình với người Do Thái” nhiều gấp ba lần số người Mĩ “có thiện cảm với người Ả-rập”. Hậu thuẫn này không phải là một ngọn lửa rơm. Sự ủng hộ rộng lớn của dân ngoại Do dành cho nước Israel là một trong những lực chính trị mạnh nhất trong chính sách đối ngoại của Hoa Kì, và trong 60 năm qua, chưa hề có một cuộc thăm dò nào của Gallup cho thấy số người Mĩ đồng tình với người Ả-rập hay người Pa-lét-tin đông hơn số người bênh vực cho dân Israel.

Hơn thế nữa, qua thời gian, thiện cảm dành cho nước Israel ngày càng gia tăng tại Mĩ, đặc biệt trong các tầng lớp dân chúng phi-Do-Thái (non-Jews). Những năm Bush nắm chính quyền đánh dấu hậu thuẫn của Hoa Kì dành cho Israel đạt đến mức cao hơn bao giờ cả, và hậu thuẫn này chưa hề suy giảm suốt trong hai nhiệm kì của Bush. Sự gia tăng hậu thuẫn này đã diễn ra thậm chí vào lúc tỉ trọng dân số của người Do Thái trong xã hội Hoa Kì bị suy giảm. Vào năm 1948, người Do Thái chiếm khoảng 3,8 phần trăm dân số Hoa Kì. Cứ cho như hầu hết mọi người Do Thái tại Mĩ ủng hộ một chính sách đối ngoại thân-Israel vào năm đó, thì khoảng 10 phần trăm số người tại Mĩ ủng hộ Israel là có gốc gác Do Thái. Vào năm 2007, người Do Thái chỉ chiếm 1,8 phần trăm dân số Hoa Kì và nhiều lắm họ cũng chỉ chiếm 3 phần trăm số người ủng hộ Israel tại Mĩ.

Những con số này, dù ấn tượng thật đấy, nhưng cũng chưa nói hết mức độ hậu thuẫn thực sự của công chúng Mĩ dành cho Israel. Khi Trung tâm Nghiên cứu Pew đặt câu hỏi trong một cuộc thăm dò ý kiến năm 2006, liệu chính sách Mĩ ở Trung Đông có công bằng không, hay đã thiên vị Israel hoặc thiên vị người Pa-let-tin, có đến 47 phần trăm số người trả lời phỏng vấn cho rằng chính sách này công bằng, 6 phần trăm nói rằng chính sách này bênh vực người Pa-let-tin, và chỉ 27 phần trăm nghĩ rằng chính sách Mĩ đã thiên vị Israel. Cuộc thăm dò được xúc tiến trong thời gian Israel tấn công lực lượng Hồi giáo Hezbolla ở Nam Li-băng, một thời điểm mà sự hậu thuẫn của Hoa Kì dành cho Israel thậm chí gây nhiều tranh cãi trên khắp thế giới hơn lúc bình thường. Vì thế, chúng ta phải kết luận rằng khi trả lời cuộc phỏng vấn, nhiều người trong số những người Mĩ cho rằng Hoa Kì có chính sách công bằng đối với cả hai phía trong cuộc xung đột Trung Đông thật ra cũng chỉ là những người ủng hộ những chính sách mà hầu hết quan sát viên nước ngoài sẽ cho là thân-Israel một cách quá nồng nhiệt và thậm chí tắc trách. Ít khi công chúng Mĩ thiên về một chính sách đối ngoại nào rõ nét như thế này, sâu sắc như thế này, bền bỉ như thế này – và xung khắc với công luận của nhiều nước khác như thế này.

Ở Hoa Kì, một chính sách đối ngoại thân-Israel không tiêu biểu cho sự thắng thế của một nhóm vận động hành lang nhỏ bé vượt lên trên lên ý chí của đại chúng. Trái lại, nó phản ánh sức mạnh công luận trong việc hình thành chính sách đối ngoại bất chấp cả những lo ngại của giới chuyên gia. Tương tự như cuộc chiến chống ma túy và hàng rào dọc theo biên giới Mê-hi-cô, sự hậu thuẫn dành cho Israel là một chính sách đối ngoại của Mĩ từng làm cho một số chuyên gia ái ngại nhưng lại chiếm được sự ủng hộ rộng rãi của công chúng. Điều này không có nghĩa là “nhóm vận động hành lang cho Israel” không hiện hữu hoặc không ảnh hưởng tới việc định hướng chính sách của Mĩ tại Trung Đông. Điều này cũng không có nghĩa là người Mĩ nên duy trì những định kiến của mình. (Tôi vẫn giữ quan điểm rằng tất cả mọi người, kể cả người Mĩ và người Israel, sẽ được lợi lộc nếu người Mĩ bày tỏ một sự hiểu biết toàn diện hơn và thiện cảm hơn đối với nhu cầu của người Pa-let-tin.) Nhưng điều này thực ra có nghĩa là cội nguồn sâu xa nhất của chính sách Trung Đông của Mĩ nằm ngoài vòng đai thủ đô Washington và nằm ngoài cộng đồng Do Thái. Muốn hiểu lí do tại sao chính sách của Hoa Kì luôn thiên vị Israel hơn là trung lập hay thân với người Pa-let-tin, chúng ta phải nghiên cứu xuất xứ của sự hậu thuẫn này từ giới bình dân và phi-Do-Thái (non-Jewish) đối với quốc gia Do Thái.

Lịch sử của việc Hoa Kì hậu thuẫn cho một quốc gia Do Thái tại Trung Đông bắt đầu khá sớm. John Adams [vị tổng thống thứ hai của Hoa Kì] đã dùng những lời lẽ bộc bạch nhất của mình: “Tôi thành thật cầu chúc cho người Do Thái có lại một quốc gia độc lập trong vùng Judea.” Ông nói điều này sau khi rời ghế tổng thống. Từ đầu thế kỉ 19 trở về sau, những người dân ngoại Do [3] theo chủ nghĩa Xi-ôn-nít [4] (gentile Zionists) rơi vào hai trường phái. Phái Xi-ôn-nít tiên tri (prophetic Zionists) dự kiến người Do Thái sẽ trở về Đất Hứa như cách thể hiện theo nghĩa đen lối giải thích lời các ngôn sứ trong Kinh thánh, những điều tiên tri có liên quan tới sự trở lại trần gian của đức Ki-tô và ngày tận thế. Chẳng hạn, dựa trên lối lí giải của chính mình về Chương 18 của những lời tiên tri của ngôn sứ Isaiah [Cựu ước], mục sư John McDonald thuộc giáo phái Albany Presbyterian đã tiên đoán vào năm 1814 rằng nhân dân Mĩ sẽ giúp người Do Thái phục hồi quốc gia thời cổ đại của họ. Nhiều tiếng nói trong giáo phái Mormon cũng chia sẻ quan điểm này; vào năm 1841, Kì mục Orson Hyde cho rằng việc người Do Thái trở về Đất thánh đã được khởi động: “Không còn hoài nghi gì nữa, bánh xe vĩ đại hiện đang chuyển động, lời của Đấng Toàn Năng đã tuyên bố rằng bánh xe đó sẽ lăn nhanh.”

Những tín đồ Ki-tô giáo khác, ít bám vào nghĩa đen của Kinh Thánh và ít dựa vào ngôn sứ hơn, lại triển khai một chủ nghĩa Xi-ôn-nit tiến bộ (progressive Zionism), một lí thuyết có ảnh hưởng qua nhiều thập niên đối với dân ngoại Do trong nhà thờ cũng như ngoài thế tục. Vào thế kỉ 19, những người Ki-tô giáo phóng khoáng thường tin rằng Thiên Chúa đang xây dựng một thế giới tốt đẹp hơn thông qua sự tiến bộ của loài người. Họ nhận thấy nước Hoa Kì dân chủ và (tương đối) bình đẳng vừa là một gương mẫu của thế giới mới mà Thiên Chúa đang tạo dựng vừa là một công cụ vững mạnh để xúc tiến đồ án vĩ đại của ngài. Một số tín đồ Tin Lành Mĩ (American Protestants) [5] tin tưởng rằng Thượng Đế đang khởi động việc đưa những phần tử gọi là người Do Thái bị xuống cấp và đày đọa trên thế giới trở về Đất Hứa, cũng như Thượng Đế đang nâng đỡ và cải thiện cuộc đời của những người ngu si, kém tin khác xuyên qua sự phát triển những nguyên tắc đạo lí Tin Lành phóng khoáng. Họ mong muốn cho người Do Thái thành lập được một quốc gia riêng vì họ tin rằng sự nghiệp lập quốc này sẽ che chở cho người Do Thái khỏi sự bách hại và, thông qua sức mạnh cứu chuộc của tự do và sự cần lao canh tác lương thiện, sẽ nâng cao và cải thiện tình trạng mà họ cho là sự suy đồi đạo lí và sự dơ dáy đáng trách của người Do Thái đương thời ở đế quốc Ottoman và đông Âu. [Cựu tổng thống Mĩ lúc bấy giờ là] Adams đã nhận định: “Một khi có lại được một chính phủ độc lập và không còn bị bách hại, những người Do Thái này sẽ sớm rũ bỏ phần nào tính cộc cằn thô lỗ, những dị hợm trong nhân cách để có lúc trở thành người Ki-tô giáo cởi mở tin vào một Thiên Chúa Nhất thể [6] (Unitarian Christians).” Đối với những tín đồ Ki-tô giáo phóng khoáng nói trên, chủ nghĩa Xi-ôn-nít Mĩ là bộ phận khắn khít của một chương trình rộng lớn hơn nhằm biến đổi thế giới bằng cách xiển dương những lí tưởng của Hoa Kì.

Không phải tất cả mọi người theo chủ nghĩa Xi-ôn-nít tiến bộ đều gói ghém lí luận của mình bằng từ ngữ tôn giáo. Ngay từ năm 1816, tờ Niles’ Weekly Register, một báo định kì thông tin và bình luận hàng đầu của Mĩ vào nửa đầu của thế kỉ 19, đã tiên đoán và hoan nghênh sự hồi hương sắp diễn ra của người Do Thái, sự trở về một quốc gia độc lập với thủ đô là Jerusalem. Tạp chí này dự phóng rằng sự nghiệp phục quốc và phục hồi nhân cách của người Do Thái sẽ đẩy mạnh văn minh và tiến bộ – và hiển nhiên là, điều này sẽ rất tốt đẹp cho cả Hoa Kì lẫn người Do Thái.

Về phần mình, những người theo chủ nghĩa Xi-ôn-nít tiên tri (prophetic Zionists) trở nên đông đảo hơn sau cuộc Nội chiến của Hoa Kì. Quan điểm của họ được triển khai cao độ về vai trò mà một quốc gia Do Thái được phục hưng có thể nắm giữ trong những biến động dẫn đến ngày tận thế. Vào giai đoạn này, những sách báo nêu bật sự phục quốc được tiên tri trong Thánh kinh của người Do Thái và suy đoán về bản sắc và tiến trình hồi hương các “bộ lạc thất tán” của dân Hêbrơ [7] cổ đại là sách bán chạy nhất từ năm này sang năm khác. Sự liên kết giữa Dwight Moody, một người rao giảng Tin Lành (evangelist) [8]hàng đầu trong nước, và Cyrus Scofield, một học giả Kinh thánh quan trọng, đã đặt lịch sử tương lai của nước Israel ở trung tâm tư duy của đạo Tin Lành bảo thủ Mĩ.

Những nhóm dân ngoại Xi-ôn-nít này tìm được những đồng minh mới, dù đôi khi không như ý, vào khoảng sau năm 1880, tức thời điểm mà đợt nhập cư đông đảo người Do Thái Nga bắt đầu. Một số những di dân mới đến này và một số người Do Thái Đức vốn đã hội nhập vào xã hội Mĩ – cả hai nhóm này – nuôi hi vọng rằng Palestine sẽ thay thế Hoa Kì làm quê hương tương lai cho hạng người bị coi là một tập thể di dân bị khinh ghét khác thường lúc bấy giờ. Đối với những phần tử bài Do Thái (anti-Semites), sự thành lập một quốc gia Do Thái có thể hoặc không có thể “chữa trị” người Do Thái hết những tính chất [tiêu cực] mà nhiều dân ngoại Do gán ghép cho họ, nhưng dù sao đi nữa sự thành lập một quốc gia như thế sẽ giảm bớt làn sóng di dân của người Do Thái vào Hoa Kì.

Năm 1891, những nhóm dân ngoại Xi-ôn-nít liên kết lại với nhau. William Blackstone, lãnh đạo thế tục thuộc giáo phái Methodist, trình lên Tổng thống Benjamin Harrison một kiến nghị kêu gọi Chính phủ Hoa Kì đứng ra làm trung gian triệu tập một hội nghị các cường quốc châu Âu nhằm thúc đẩy Đế quốc Ottoman giao trả Palestine lại cho người Do Thái. Bốn trăm người kí tên, mà tuyệt đại đa số là các nhân vật phi-Do-Thái, gồm có chủ tịch Tối cao Pháp viện; Chủ tịch Hạ viện; các chủ tịch Ủy ban tài chánh Hạ viện và Ủy ban ngoại vụ Hạ viện; tổng thống tương lai William McKinley; thị trưởng các thành phố Baltimore, Boston, Chicago, New York, Philadelphia và Washington; chủ bút và chủ báo các nhật báo hàng đầu trên bờ Đông và Chicago; và hàng giáo phẩm rất đáng nể của các giáo phái như Episcopal, Methodist, Presbyterian và Công giáo. Các lãnh đạo doanh nghiệp tham gia kí bản kiến nghị gồm có Cyrus McCormick, John Rockefeller, và J.P. Morgan. Vào một thời điểm mà cộng đồng Do Thái tại Hoa Kì vừa không đủ lớn, vừa không đủ mạnh, và cả giới vận động hành lang cho Israel chưa hiện hữu, những thành phần nòng cốt của nhóm dân ngoại Do quyền thế trong xã hội Mĩ (the American gentile establishment) đã chính thức hậu thuẫn một nỗ lực ngoại giao của chính phủ Hoa Kì nhằm lập ra một quốc gia Do Thái trên địa bàn của Kinh thánh.

Bất cứ một thảo luận nào về thái độ của Hoa Kì đối với Israel phải bắt đầu từ Kinh thánh. Qua nhiều thế kỷ, tư duy của người Mĩ đã được thấm sâu trong Kinh điển Hêbrơ. Ảnh hưởng này có xuất xứ từ việc tái phát hiện Kinh thánh Cựu ước trong thời kì Cải cách (the Reformation), được tăng cường do việc triển khai lí thuyết thần học Calvin [9] (một tín lí nhấn mạnh sự liên lũy giữa những sự sắp đặt tiền định trong thế gian, thời xưa và ngày nay, do hồng ân Thiên Chúa), và được làm sống động hơn lên do những tương đồng lịch sử giữa những trải nghiệm hiện đại của người Mĩ và những gì mà người Hêbrơ cổ đại đã kinh qua. Do đó, ngôn ngữ, các gương anh hùng và tư tưởng Cựu ước luôn thấm sâu vào tâm thức người Mĩ.

Qua một thời gian dài ở giai đoạn đầu của lịch sử Hoa Kì, việc giảng dạy tiếng Hêbrơ của kinh thánh là điều cưỡng bách ở các đại học Columbia, Dartmouth, Harvard, Princeton và Yale. James Madison hoàn tất chương trình học tại Princeton trong vòng hai năm, nhưng ở nán thêm một năm nữa để học tiếng Hêbrơ. Nhiều giáo sĩ và nhiều tác giả thời Thuộc địa không ngớt mô tả nước Mĩ là một Ca-na-an mới, “một miền đất tràn trề sữa và mật”, đồng thời nhắc nhở thính, độc giả của mình rằng cũng như người Hêbrơ đánh mất phước lành khi họ xúc phạm Thiên Chúa, người Mĩ cũng sẽ chịu khổ nạn nếu họ không chịu nghe theo vị Thượng Đế đã dẫn dắt họ vào miền đất hứa. Cho đến ngày nay, những điển cố Cựu Ước vẫn còn thấm đẩm các bài viết cũng như diễn văn chính trị, và thậm chí trong cả địa lí nữa– hơn một ngàn thành phố lớn, nhỏ tại Hoa Kì có tên lấy từ Kinh thánh.

Biểu hiện có tính tôn giáo sống động nhất nói lên tầm quan trọng của Kinh thánh Cựu ước trong văn hoá Mĩ ngày nay là sự trỗi dậy của thuyết nói về mệnh trời trước ngày tận thế (premillennial dispensationalism), đây là một lối diễn giải những điều tiên tri trong kinh thánh, một lý thuyết mang lại trọng lượng đặc biệt cho các ý niệm tôn giáo trong Cựu ước như khoa thần học giao ước (covenant theology) [10] , và dành vai trò quyết định lịch sử tương lai cho quốc gia Do Thái, một quốc gia được phục hồi (với thủ đô là Jerusalem). Khoảng chừng 7 phần trăm dân Mĩ tỏ ra có lập trường thần học này (nghĩa là nhóm này đông gần gấp 4 lần cộng đồng Do Thái tại Mĩ), đồng thời không ít thì nhiều một số đông hơn đáng kể chịu ảnh hưởng của khuynh hướng này. Những người đề xuất quan điểm này thường (dù không luôn luôn) chia sẻ quan điểm của một số người Do Thái chính thống, rằng người Do Thái phải đòi cho bằng được một quốc gia bao gồm tất cả phần lãnh thổ mà người Hêbrơ từng được Thiên Chúa hứa hẹn; họ chống lại bất cứ một khoan nhượng lảnh thổ nào với người Pa-lét-tin và họ hậu thuẫn các khu định cư Do Thái ở bờ Tây sông Jordan. Tuy nhiên, đây vẫn là một quan điểm của thiểu số, ngay cả dưới con mắt những người ủng hộ Israel tại Mĩ.

Trái lại, chủ nghĩa Xi-ôn-nít Ki-tô giáo tiến bộ liên quan nhiều với đức lí Ki-tô giáo, hơn là dựa vào lời của các ngôn sứ. Phần lớn chủ nghĩa này có gốc rễ trong mặc cảm tội lỗi và trong ý thức rằng sự bạc đãi của người Ki-tô giáo đối với người Do Thái trong quá khứ hiện đang cản trở người Do Thái chấp nhận Ki-tô giáo. Hơn một ngàn năm, người Do Thái ở châu Âu đã chịu đựng những hành động tàn ác phi thường và lắm khi không ngôn từ nào diễn tả được do bàn tay của người Ki-tô giáo châu Âu. Mặc dù một số tín đồ Tin Lành Mĩ có thời đã kéo dài lịch sử thiếu độ lượng và bài Do Thái này, nhưng từ thế kỉ 19 trở về sau nhiều tín đồ Tin Lành phóng khoáng Mĩ đã coi việc từ bỏ quá khứ này như một trong những nhiệm vụ xác định tính chất của một giáo hội Mĩ cải cách và giác ngộ. Những tín đồ Tin Lành này có thể (và đã thoải mái) chỉ trích chủ nghĩa bài Do Thái của Công giáo La Mã, gọi đây là một hậu quả do những thối nát đáng tiếc dưới chế độ giáo hoàng; nhưng người ta cũng không dễ gì bỏ qua những hành động và những tuyên truyền bài bác Do Thái do chính những nhà cải cách tôn giáo như [người sáng lập đạo Tin Lành] Martin Luther. Nhiều thành viên trong các giáo phái Tin Lành cởi mở Mĩ đã coi mình có nhiệm vụ thiêng liêng là phải hoàn tất sự nghiệp của thời Cải cách (the Reformation) bằng cách tẩy sạch Ki-tô giáo khỏi những tàn tích “trung cổ” như mê tín, thiên kiến, và chủ nghĩa bài Do Thái. Việc sám hối những tội lỗi quá khứ bằng cách bênh vực người Do Thái đã và đang là một thể nghiệm đức tin quan trọng đối với nhiều (mặc dù hẵn nhiên không phải đối với tất cả) tín đồ Tin Lành Mĩ.

Tương phản với thái độ thân Do Thái, đa số tín đồ Ki-tô giáo Mĩ ít khi hoặc không hề có cảm thức tội lỗi nào về những lối ứng xử trong lịch sử của cộng đoàn mình đối với thế giới Hồi giáo. Nhiều tín đồ Hồi giáo coi cuộc xung đột Ki tô giáo-Hồi giáo kéo dài hơn một ngàn năm qua là một hiện tượng liên tục và tương đối thuần nhất, nhưng tín đồ Tin Lành Mĩ lại không nhìn nhận như vậy. Chẳng hạn, họ thường chê trách những tàn bạo của các cuộc Thập tự chiến (the Crusades) và chỉ trích quan niệm thánh chiến, nhưng họ lại coi đây là những sai lầm của Công giáo La mã chứ không phải của Ki-tô giáo nói chung. Và dẫu sao, họ coi những cuộc Thập tự chiến ấy như đã lùi sâu vào dĩ vãng và âu cũng là phản ứng trả đũa sự xâm lấn trước đó của người Hồi giáo. Họ cũng thường phê phán sự bóc lột thuộc địa của các cường quốc châu Âu trong các thế kỉ vừa qua, nhưng họ lại coi những khai thác bóc lột đó là do tham vọng đế quốc của Cựu thế giới chứ không do Ki-tô giáo gây ra và vì thế đó là điều họ không chịu trách nhiệm. (Một biệt lệ quan trọng đáng được nhắc đến: Nhiều nhà truyền giáo Mĩ hoạt động tích cực ở Trung Đông đã tạo được quan hệ sâu đậm với người Ả-rập trong vùng và đã hậu thuẫn mạnh mẽ cho chủ nghĩa dân tộc Ả-rập, vừa vì họ không ưa thích chủ nghĩa thực dân châu Âu vừa vì họ hi vọng một phong trào dân tộc có tính thế tục sẽ cải thiện vị thế của các Ki-tô hữu Ả-rập. Cộng đồng truyền giáo này vừa góp phần phát triển đội ngũ giới chức quan tâm đến quyền lợi Ả-rập trong Bộ Ngoại giao Mĩ vừa giúp tạo ra phản ứng khá dữ dội trong nhiều giáo phái Tin Lành chính mạch chống lại các chính sách của Israel trong vùng lãnh thổ bị chiếm đóng sau cuộc chiến 1967.)

Khoảng trước năm 1948, nhiều tín đồ Ki-tô giáo Mĩ cảm thấy một gánh nặng lương tâm về món nợ và nghĩa vụ lịch sử đối với người Do Thái, nhưng họ không hề cảm thấy điều này đối với người Á rập. Có chăng là, họ chỉ nghĩ rằng thế giới Hồi giáo phải chịu mang ơn các nhà truyền giáo Hoa Kì đã xây dựng nhiều đại học và bệnh viện hàng đầu tại Trung Đông và rằng chính sự hậu thuẫn của người Ki-tô giáo Mĩ trước và sau Thế chiến II đã góp phần thúc đẩy sự trổi dậy của các quốc gia Á rập và Hồi giáo độc lập, một phong trào đang diễn tiến lúc bấy giờ.

Những người bà con do Chúa chọn

Ý thức về bản sắc riêng biệt và sứ mệnh của Hoa Kì được bồi đắp qua quá trình tiếp thu sử sách và tư tưởng Hêbrơ. Nhà văn Mĩ Herman Merville đã diễn tả quan điểm này như sau: “Người Mĩ chúng ta là nhân dân đặc biệt, được Chúa chọn – là nước Israel thời đại mới; chúng ta gánh lấy chiếc thuyền Nô-ê chứa đầy các quyền tự do trên thế giới.” Từ thời đại của những người Thanh giáo (Puritans) cho đến ngày nay, nhiều giáo sĩ, nhà tư tưởng và chính khách tại Hoa Kì – thế tục cũng như tôn giáo, phóng khoáng cũng như bảo thủ – vẫn coi người Mĩ là một khối nhân dân do Chúa chọn, ràng buột với nhau theo huyết thống thì ít nhưng theo một hệ thống tín lí và một định mệnh chung thì nhiều. Nhiều người Mĩ vẫn còn tin tưởng rằng Thiên Chúa (hay lịch sử) đã đưa họ đi vào một vùng đất mới và làm cho họ trở thành vĩ đại, giàu có, và rằng sự phồn vinh bền vững của họ sẽ tùy thuộc vào việc họ chu toàn bổn phận đối với Thiên Chúa hay theo đúng những nguyên tắc đạo lí đã mang lại ơn phước cho họ từ trước tới nay. Nếu họ sao lãng những nguyên tắc này – như khi người Do Thái quay ra sùng bái con bò bằng vàng lúc Mô-se vắng mặt – thì tai họa sẽ giáng xuống trên đầu họ.

Cả người Mĩ mộ đạo lẫn người Mĩ thế tục đều hướng tới Kinh thánh Hêbrơ để tìm ra một tấm gương của một dân tộc có tính đặc thù nhờ sứ mệnh riêng và được ơn kêu gọi gánh vác một định mệnh là làm thay đổi thế giới. Phải chăng đất đai người Mĩ đang cư ngụ đã có thời thuộc về người khác? Vâng đúng vậy, nhưng trong một cách thế tương tự, người Hêbrơ đã từng chiếm đất của người Ca-na-an. Phải chăng các thuộc địa bé nhỏ tại Mĩ chỉ được trang bị bằng sức mạnh công lí của chính nghĩa mà đã đánh thắng một đế quốc vĩ đại nhất thế giới? Vâng, cũng giống như David, cậu bé chăn cừu khiêm tốn, đã quật ngã người khổng lồ Goliath. [11] Phải chăng người Mĩ vào thế kỉ 19 từng bị cô lập và bị nhạo báng vì những lí tưởng dân chủ của mình? Vâng, trong hoàn cảnh tương tự, người Hêbrơ cũng bị các sắc dân thờ bái thần tượng bao vây. Phải chăng người Mĩ đã từng đánh thắng giặc trong, thù ngoài? Vâng, theo Kinh thánh, người Hêbrơ cũng từng chiến thắng như vậy. Phải chăng vì vi phạm chính những tín lí của mình khi cầm giữ hàng triệu nô lệ, người Mĩ đã bị trừng phạt và hứng chịu nhiều tai hoạ? Vâng, rất giống như người Hêbrơ, một dân tộc đã hứng chịu hậu quả của tội lỗi mình trước mặt Thiên Chúa.

Nhận thức đầy huyền thoại này về bản chất và định mệnh nước Mĩ là một trong những yếu tố có tác động mạnh mẽ và bền bỉ nhất trong văn hóa và tư tưởng Hoa Kì. Như người Hêbrơ cổ đại từng tin tưởng, nhiều người Mĩ ngày nay cũng tin tưởng rằng họ mang một mặc khải, nhiên hậu không những cho chính họ mà cho toàn thế giới; họ thường tự coi mình là nước Israel mới của Thiên Chúa. Một trong những hậu quả của việc nhìn họ hàng (presumed kinship) này là nhiều người Mĩ cho rằng việc một dân tộc được Chúa chọn (chosen people) này hậu thuẫn cho một một dân tộc được Chúa chọn khác là điều vừa hợp lẽ phải vừa chính đáng. Họ không cảm thấy áy náy khi sự hậu thuẫn của Hoa Kì dành cho Israel, một dân tộc và một quốc gia thường bị nhiều nước cô lập và khai trừ, làm cho Hoa Kì bị ghét lây hoặc gây ra nhiều vấn đề khác. Việc Hoa Kì nhận lãnh vai trò của một kẻ che chở cho Israel và một người bạn của người Do Thái là một cách hợp thức hóa địa vị riêng của một quốc gia được Thiên Chúa giao cho một định mệnh độc đáo.

Hơn thế nữa, từ thế kỉ 19, Hoa Kì đã tự coi mình là đại lí được Thiên Chúa chọn ra để bảo vệ và cứu chuộc dân tộc Do Thái. Người Mĩ từng tin rằng người Do Thái sẽ vươn lên từ thân phận đọa đày khi họ rời bỏ những khu ổ chuột trong thành phố để về sống ở các vùng thôn quê – y như những người di dân đến Mĩ từ khắp châu Âu đã xây dựng được cuộc sống tốt đẹp hơn và nhân cách vững vàng hơn khi họ trở thành những nông dân theo mô hình kinh tế nông nghiệp Jefferson (Jeffersonian farmers) [12] . Những tín đồ Ki-tô giáo cởi mở như [tổng thống] Adams tin tưởng rằng tiến trình này sẽ kịp thời đưa người Do Thái đến với ánh sáng của giáo phái Tin Lành khai phóng, nằm trong nỗ lực là thăng tiến toàn thể nhân loại. Còn những người theo chủ nghĩa Xi-ôn-nit tiên tri (prophetic Zionism) thì hi vọng rằng việc hàng loạt người Do Thái cải sang Ki-tô giáo hồi sinh (revivalist Christianity) sẽ nhanh chóng chuyển sang giai đoạn khải huyền [tận thế] cùng với sự trở lại thế gian của đức Ki-tô. Bằng cách này hoặc bằng cách khác, vai trò đặc biệt của Hoa Kì trong việc phục hồi nhân phẩm và chỗ đứng của người Do Thái đã thể hiện những kì vọng của dân ngoại Do Mĩ về sự chuyển động của lịch sử và khẳng định niềm tin tưởng của họ về bản sắc và sứ mệnh của Hiệp Chúng Quốc.

Hiệp Chúng Quốc và Israel còn có chung một tình trạng là “quốc gia thực dân”–những nước được thành lập bởi các dân tộc đã giành quyền kiểm soát lãnh thổ cho riêng mình sau khi trục xuất các dân tộc bản địa. Cả hai quốc gia được nhào nặn mạnh mẽ bởi một lịch sử xung đột và đối đầu với những sắc dân bị họ trục xuất, và cả hai đều tìm lí lẽ biện minh cho hành vi của mình từ những nguồn đạo lí tương tự. Cả người Mĩ lẫn người Israel chủ yếu tìm sự biện minh từ Kinh thánh Cựu ước, trong đó có những trang sách thiêng liêng kể lại tích truyện về sự xung đột giữa người Hêbrơ cổ đại và người Ca-na-an, cư dân trước đó của phần lãnh thổ mà người Hêbrơ tin tưởng là Đất Hứa của họ. Người Mĩ tìm thấy nhiều hấp dẫn trong quan niệm cho rằng họ là quốc gia Israel mới của Thiên Chúa một phần cũng vì quan niệm này biện minh cho việc họ đã trục xuất và giành đất của người Mĩ bản địa [dân da đỏ]. Như Theodore Roosevelt đã viết trong cuốn lịch sử miền Tây Hoa Kì, đương thời được liệt là sách bán chạy nhất: “Nhiều người trong những công dân xuất sắc ở vùng sâu vùng xa là những người ham đọc Kinh Thánh, nhưng họ được nuôi dưỡng theo một đức tin phần lớn được rao giảng trong Cựu ước, một đức tin không coi trọng lòng thương hại, sự thật, hay từ bi. Họ nhìn kẻ thù của mình theo cách những ngôn sứ Hêbrơ đã nhìn kẻ thù của Israel. Những hành vi ghê tởm đã khiến cho người Ca-na-an bị tiêu diệt trước mắt Joshua [13] đâu có nghiã lí gì nếu đem so với những sự hèn hạ của bọn mọi da đỏ khiến người Mĩ, cũng là một giống dân Chúa chọn, đến phiên mình có bổn phận phải thừa hưởng đất đai của chúng.” (Bản thân Roosevelt, cũng như những người em họ Franklin và Eleanor, là một người Ki-tô giáo theo chủ nghĩa Xi-ôn-nít. “Đối với tôi, việc khởi sự thành lập một quốc gia Xi-ôn-nit chung quanh Jerusalem là hoàn toàn thích đáng”, Roosevelt viết như thế năm 1918.)

Ngoài một lời hứa hẹn trực tiếp từ Thiên Chúa, hai biện minh quan trọng mà người Mĩ đưa ra trong những cuộc tranh chấp lãnh thổ với người Mĩ bản địa là quan niệm cho rằng họ chỉ bành trướng vào “những vùng đất hoang vu” và lí thuyết liên hệ của John Locke về “việc sử dụng tài sản công bằng hợp lí”, theo đó một tài sản không có người dùng là một sự phí phạm và là một xúc phạm đối với thiên nhiên. Những người đến lập nghiệp ở Mĩ cho rằng chỉ những ai có thể cải thiện đất đai, bằng cách thiết lập san sát trên đó nhiều nông trại rộng lớn và xây dựng trên đó nhiều phố thị, mới có thực quyền làm chủ đất đai ấy. Từ năm 1802 [tổng thống tương lai] John Quincy Adams đã bênh vực cho luận điểm này: “Liệu [người da đỏ] dám bắt cả một vùng đất bao la của địa cầu phải chịu đời đời hoang phế hay sao…? Còn Thomas Jefferson thì cảnh báo rằng những người Mĩ bản địa nào không chịu học hỏi người da trắng, không đi vào con đường canh tác sản xuất thì phải chịu số phận đen tối. Họ sẽ “thoái hoá trở lại tình trạng man rợ khốn cùng, sẽ hao hụt dân số vì chiến tranh và thiếu đói; khi đó chúng ta buột lòng phải xua đuổi họ, cùng với loài dã thú trong rừng, vào vùng núi đá.”

Suốt phần lớn lịch sử Hoa Kì, những quan điểm như thế có âm hưởng lớn không những đối với dân vùng sâu vùng xa mà còn đối với cả những công dân lịch lãm và phóng khoáng. Những luận cứ này mang một ý nghĩa đặc biệt khi bàn đến Đất thánh. Trong khi người Mĩ mộ đạo miệt mài chiêm nghiệm những huy hoàng của thành Jerusalem cổ đại và Đền Solomon [14] , họ đã vẽ lên trong tâm trí mình một miền đất phì nhiêu hoành tráng – “một quê hương tràn trề sữa tươi và mật ngọt”, như Kinh thánh mô tả. Nhưng vào khoảng đầu thế kỉ 19, khi hàng chục người đầu tiên, rồi đến hàng trăm người, và cuối cùng hàng ngàn người đi hành hương Đất thánh – đồng thời thêm hàng triệu người đổ xô đến dự những buổi thuyết trình để nghe tường thuật những chuyến đi này – người ta mới vỡ lẽ rằng chẳng có chi đáng gọi là sửa tươi và mật ngọt; Palestine lúc bấy giờ chỉ là một trong những tỉnh nghèo nàn nhất, lạc hậu nhất, tả tơi nhất của Đế quốc Ottoman. Trước mắt người Mĩ, những sườn đồi và những cánh đồng sỏi đá của vùng Judea trông rất thê lương, trống trải – khiến nhiều người tin rằng Thiên Chúa đã rủa sả vùng đất này khi ngài đày dân Do Thái vào cuộc lưu vong thứ hai, một cuộc lưu vong mà họ cho là hình phạt người Do Thái phải gánh chịu vì không chịu nhìn nhận đức Ki-tô là đấng Cứu thế. Và vì thế, nhiều người Mĩ tin tưởng, người Do Thái thuộc về Đất thánh và Đất thánh phải thuộc về người Do Thái. Người Do Thái sẽ không bao giờ cất đầu lên được bao lâu mà họ chưa về lại quê nhà, chưa được tự do, và đất thánh sẽ không bao giờ đâm bông kết trái bao lâu mà những người chủ chân chính của nó chưa trở về.

Ngôn sứ Isaiah đã mô tả cuộc hồi hương tương lai của dân Do Thái là hồng ân Thiên Chúa mang nước tưới lên sa mạc. Và nhiều người Mĩ đang chứng kiến mầu mỡ của vùng đất này được phục hồi dưới bàn tay canh tác của những người Xi-ôn-nít đầu tiên mới về lập nghiệp, họ chứng kiến với tất cả cảm giác ngỡ ngàng là những điều tiên tri trong kinh thánh đang trở thành hiện thực ngay trước mắt mình. “Những suối nguồn trong sức mạnh thực dân Do Thái, được nuôi dưỡng hào phóng bằng đồng tiền của cộng đồng Do Thái trên toàn thế giới, đang tuôn chảy tràn trề lên sa mạc”, tạp chí Time đã viết như thế vào năm 1946, vang vọng ngôn ngữ của Tiên tri Isaiah. Hai năm sau, tiếp theo thắng lợi của Do Thái trong cuộc chiến 1948, báo Time lại mô tả dân Ả-rập bằng những từ ngữ khiến người đọc ngày nay phải giật mình nhưng vào thời đó nó tiêu biểu cho cảm thức thông thường của người Mĩ: “Thế giới phương Tây thường coi người Ả-rập như một chinh nhân có đôi mắt diều hâu ngồi trên lưng ngựa trắng. Chàng Ả-rập ấy vẫn còn lẫn khuất đâu đó, nhưng chàng thuộc về một thiểu số quá nhỏ nhoi so với hạng khốn khó, mang đủ thứ bệnh hoạn trong người, đang nằm lây lất trên những con lộ nóng, quá ốm yếu và bạc nhược tinh thần đến độ không còn sức để lăn vào bóng mát.” Người Mĩ chứng kiến một cuộc đọ sức giữa một dân tộc lạc hậu, yếu hèn và một dân tộc có khả năng lập nghiệp trên vùng đất hoang dã và làm cho nó đâm bông kết trái, đang thần kì thể hiện những lời tiên tri xa xưa về một quốc gia Do Thái.

Trước đó, một cách khá phổ biến, người Do Thái bị coi là khối dân đáng chê trách nhất ở đông Âu: dốt nát, sa đọa, mê tín, chia bè chia phái, hay gây gỗ, và lạc hậu hết thuốc chữa. Sự thể đám dân này, sau khi chịu đựng bao nhiêu dã man chưa từng có dưới sự đàn áp của Đức quốc xã, đã thiết lập được một chế độ dân chủ ổn định đầu tiên ở Trung Đông, xây dựng được một nền kinh tế thịnh vượng trong sa mạc và liên tục đánh bại những kẻ thù có đội quân lớn mạnh hơn mình nhiều lần, đối với nhiều người Mĩ là bằng chứng lịch sử hùng hồn về những lí tưởng tôn giáo mà họ ấp ủ sâu xa nhất.

Mặc dù sự hậu thuẫn của dân ngoại Do Mĩ dành cho Israel vẫn còn mạnh và thậm chí gia tăng kể từ Thế chiến II, nhưng tính chất của hậu thuẫn này đã thay đổi. Mãi cho đến Cuộc Chiến Sáu Ngày, phần lớn hậu thuẫn dành cho Israel đến từ giới chính trị tả khuynh và thường thì phe Dân chủ ủng hộ Israel mạnh hơn phe Cộng hòa. Các thần tượng phóng khoáng như Eleanor Roosevelt, Paul Tillich, Reinhold Niebuhr, và Martin Luther King, Jr., đều là những tiếng nói công khai hàng đầu kêu gọi Hoa Kì ủng hộ Israel. Nhưng kể từ 1967, hậu thuẫn của cánh tả dành cho Israel dần dần suy giảm trong khi hậu thuẫn của phe bảo thủ lại gia tăng.

Nhiều yếu tố khác nhau đã hội tụ lại trong thập niên 1940 để biến chủ nghĩa Xi-ôn-nít ngoại Do tiến bộ (progressive gentile Zionism) thành một thế lực mạnh trong sinh hoạt chính trị của Hoa Kì, nhất là bên cánh tả. Một là, cuộc tàn sát người Do Thái do bàn tay của Đức quốc xã trong Thế chiến II gây chấn động phi thường lên tín đồ Tin Lành Mĩ. Trước đó nước Đức đã có một thời cung ứng lãnh đạo tinh thần cho giáo hội Tin Lành Mĩ, và vì thế thái độ thụ động chấp nhận mà các hầu hết nhà thờ và mục sư Tin Lành Đức dành cho chế độ Quốc xã đã gây sốc đến tận cốt lõi cho toàn khối Tin Lành chính mạch tại Mĩ. Những tín đồ Tin Lành Đức chống chế độ Quốc xã đã trở thành những vị anh hùng đạo lí và thần học tại Hoa Kì thời hậu chiến, đồng thời thái độ chống đối chủ nghĩa bài Do Thái (anti-Semitism) trở thành một thử nghiệm then chốt mà các tín đồ Tin Lành chính mạch Mĩ dùng để đánh giá bản thân và các nhà lãnh đạo. Cơn sốc sâu đậm này đã mạnh mẽ thúc đẩy họ hưởng ứng cứu trợ nhân đạo trước những phát hiện về các lò sát sinh và các cuộc tàn sát tập thể. Nỗi thống khổ của người Do Thái tị nạn, vừa li tán vừa đói nghèo trong một châu Âu hỗn loạn thời hậu chiến, đã khiến điều sau đây trở thành tất yếu: tín đồ Tin Lành Mĩ, sau một thế kỉ vận động đòi quyền sống cho dân Do Thái, sẽ nhiệt tình hậu thuẫn những bước phát triển mà họ cho là có thể đảm bảo an toàn cho người Do Thái châu Âu.

Yếu tố thứ hai là hậu thuẫn mạnh mẽ của người Mĩ gốc châu Phi (African Americans) dành cho người Do Thái vào một thời điểm mà dân da đen bắt đầu đóng một vai trò to lớn hơn trong sinh hoạt chính trị tuyển cử của Hoa Kì. Suốt thập niên 1930, báo chí của người Mĩ gốc châu Phi đã chăm chú theo dõi việc Hitler áp đặt những chính sách phân biệt chủng tộc. Các lãnh đạo Mĩ gốc châu Phi không để lỡ cơ hội vạch ra những điểm tương đồng giữa việc Hitler đối xử với người Do Thái và những luật phân chủng Jim Crow áp dụng tại miền nam Hoa Kì. [15] Đối với nhiều người Mĩ gốc châu Phi, bằng kinh nghiệm bản thân hằng ngày, họ cảm nhận một cách sống động, hiện thực, cảnh đàn áp mà người Do Thái phải chịu đựng. Sự đàn áp này cũng cung ứng cho họ những luận điểm quan trọng để thuyết phục người da trắng rằng kì thị chủng tộc là vi phạm những nguyên tắc đạo lí của Mĩ và vì thế sự đàn áp người Do Thái ở châu Âu đã đưa đến việc xây dựng một liên minh vững mạnh giữa người Do Thái tại Mĩ và phong trào dân quyền [của người da màu], một liên minh tồn tại từ năm 1945 đến cuối đời Martin Luther King. Ngay cả trong Thế chiến II, các nhà tranh đấu da đen W.E.B. Du Bois, Zora Neale Hurston, Langston Hughes, và Philip Randolph đã ủng hộ tiền thân (precursor) của đảng Likud trong nỗ lực thành lập một quân đội DoThái. Nhà lãnh đạo dân quyền Adam Clayton Powell, Jr., còn đi xa hơn, quyên góp đến 150.000 đôla cho tổ chức Xi-ôn-nit chủ chiến Irgun Zvai Leumi – mà ông gọi là “một tổ chức khủng bố bí mật tại Palestine” – trong một cuộc mit-ting tại Thành phố New York.

Sự ủng hộ của Liên Xô đối với một quốc gia Israel độc lập cũng giúp phần nào. Ở Yalta, Joseph Stalin đã nói với Franklin Roosevelt rằng bản thân ông ta cũng là một người Xi-ôn-nit. Vào tháng Năm 1947, Bộ trưởng Ngoại giao Xô-viết Andrei Gromyko tuyên bố trước Liên hiệp quốc rằng Liên xô ủng hộ việc thành lập một quốc gia Do Thái. Hậu thuẫn này, dù có ngắn ngủi chăng nữa, đã củng cố quan điểm của nhiều người Mĩ bên cánh tả, rằng việc thành lập một quê hương cho người Do Thái là một phần của cuộc đấu tranh chung cho tiến bộ trên toàn thế giới. Thật ra, trong những thập niên sau thế chiến, nhiều người Mĩ phóng khoáng (American liberals) đã coi việc hậu thuẫn Israel là một phần đóng góp của họ cho chế độ tự do, cho phong trào giải thực (vì người Do Thái ở Palestine cũng đang đòi độc lập bất chấp sự phản đối của Anh Quốc), cho cuộc đấu tranh chống kì thị chủng tộc và tôn giáo, cho chủ nghĩa thế tục, cho chủ nghĩa nhân đạo, và cho truyền thống tiến bộ trong sinh hoạt chính trị của Hoa Kì. Lúc bấy giờ trong mắt của nhiều người, nước Israel xuất hiện như một thí nghiệm thế tục đầy tính lí tưởng của chế độ dân chủ xã hội (social democracy). Cả người Do Thái Mĩ cũng như người dân ngoại Do Mĩ cùng nhau sang tận Israel để thể nghiệm cuộc sống hân hoan, tham gia lao động và sinh hoạt tập thể tại những trang trại công (kibbutz) của các khu định cư. Vì thế, vào năm 1948, khi Truman quyết định hậu thuẫn việc thành lập nước Israel, ông ta không chỉ nghĩ đến lá phiếu của người Do Thái mà thôi. Hậu thuẫn mà Hoa Kì dành cho Israel cũng được lòng người dân da đen miền Bắc, những người được thu hút đến với đảng Dân Chủ nhờ chính sách New Deal [16] và việc Truman từng bước tiến đến hậu thuẫn cho dân quyền. Sự hậu thuẫn cho nước Israel cũng giúp Truman tranh thủ được nhiều cử tri cánh tả, những người mà nếu không vì lợi ích của Israel có thể đã ủng hộ Henry Wallace và đảng Tiến bộ. Ngọn cờ hậu thuẫn Israel cũng giúp Truman giành phiếu của cử tri miền nam bảo thủ, những cử tri đi nhà thờ, đọc kinh thánh, và nhờ thế tăng cường khả năng chống lại ảnh hưởng của cánh Dân chủ miền nam (Dixiecrats) của Strom Thurmond. Quả thật, hậu thuẫn dành cho Israel là một trong những chủ điểm hiếm hoi còn lại để giữ được liên minh vốn đã bị nức rạn của đảng Dân chủ.

Tuy nhiên, kể từ cuộc chiến 1967, cơ sở của sự ủng hộ dành cho Israel tại Hoa Kì đã chuyển dịch: hậu thuẫn cho Israel có khuynh hướng giảm dần bên cánh tả và gia tăng bên cánh hữu. Bên cánh tả, sự bất mãn đều khắp đối với những chính sách của Israel trong các vùng đất bị chiếm đóng cùng với mối quan tâm ngày một giảm đối với an ninh của nước này, theo sau thắng lợi của nó trong cuộc chiến, đã khiến nhiều người Mĩ gốc châu Phi, nhiều tín đồ Tin Lành chính mạch, nhiều trí thức phóng khoáng, những người một thời từng là đồng minh vững chắc của Israel tại Mĩ, chuyển sang ngày càng có cảm tình với quan điểm của người Pa-let-tin. Ngoài ra, sự đồng cảm ngày một gia tăng của người da đen đối với các phong trào chống thực dân khắp thế giới, sự hao mòn của liên minh da đen-Do Thái trong chính trị nội bộ Mĩ, và thanh thế đang lên của các nhân vật như Malcolm X và các lãnh đạo của tổ chức Nước Hồi Giáo (Nation of Islam) cũng dần dần làm suy giảm sự hậu thuẫn của dân Mĩ gốc châu Phi dành cho Israel. Về phần mình, những giáo phái Tin Lành cởi mở bắt đầu tiếp thu quan điểm của những nhà truyền giáo có thiện cảm với chủ nghĩa dân tộc Ả-rập; đồng thời, khi các giáo phái chính mạch càng ngày càng chỉ trích những quan niệm truyền thống Mĩ về bản sắc và định mệnh quốc gia của Hoa Kì, những tín đồ cởi mở này cũng tránh xa lối tiếp cận Cựu ước truyền thống. (Mặc khác, quan hệ giữa người Công giáo Mĩ và người Do Thái bắt đầu cải thiện sau cuộc chiến 1967, chủ yếu nhờ cách tiếp cận với người Do Thái theo quan điểm thần học mới của Giáo hội Công giáo kể từ Công đồng Va-ti-ca-nô II. [17] )

Bên cánh hữu, thay đổi nổi bật nhất kể từ 1967 là sự gia tăng đột biến hậu thuẫn dành cho Israel trong giới Ki-tô giáo Tin Lành (evangelical Christians) [18] và, tổng quát hơn, trong hàng ngũ những thành phần mà tôi từng gọi là cử tri “có tính chất Andrew Jackson [19] ” (Jacksonians) ở vùng đại bình nguyên giữa bờ Đông và bờ Tây nước Mĩ. Jacksonians là những cử tri bình dân-quốc gia chủ nghĩa [20] (populist-nationalist), họ ủng hộ một quân đội hùng mạnh và thông thường không mấy tin tưởng các tổ chức quốc tế và viện trợ nhân đạo toàn cầu. Không phải tất cả mọi tín đồ Tin Lành đều là Jacksonians, và không phải tất cả Jacksonians đều là người Tin Lành, nhưng có một số người nhất định thuộc về cả hai nhóm cử tri này. Nhiều người da trắng miền nam là Jacksonians; nhiều cử tri không kiên định lập trường đảng phái ở miền Bắc, còn gọi là những người Dân chủ ủng hộ Reagan (Reagan Democrats), cũng là Jacksonians.

Nhiều Jacksonians đã có định kiến tiêu cực về người Ả-rập từ thời Chiến tranh lạnh. Họ nhận thấy, dân Pa-lét-tin và các quốc gia Ả-rập thường đứng về phía Liên xô và Phong trào phi-liên kết để chống lại Hoa Kì. Người Ai-Cập đáp lại hậu thuẫn của Hoa Kì trong vụ khủng hoảng kênh đào Suez năm 1956 bằng cách quay sang phía Xô-viết để mua vũ khí và tìm hậu thuẫn, đồng thời chuyên viên Xô-viết và vũ khí Xô-viết đã giúp các đội quân Á-râp chuẩn bị các cuộc chiến chống Israel. Các Jacksonianscó khuynh hướng nhìn các biến động quốc tế theo lăng kính độc đáo của mình. Cùng với các biến động diễn ra ở Trung Đông từ năm 1967, họ ngày càng có nhiều cảm tình với Israel ngay cả khi nhiều thành phần khác của xã hội Mĩ – và thêm nhiều người nữa ở những vùng khác trên thế giới – ngày càng mất đi cảm tình đối với Israel. Cuộc Chiến Sáu Ngày (the Six-Day War) đã nhen nhúm lại mối quan tâm của những người Xi-ôn-nit tiên tri đối với Israel và, theo cách nhìn của nhiềuJacksonians, cuộc chiến này đã tăng cường những quan hệ sâu sắc giữa Israel và Hoa Kì. Sau thời Chiến tranh lạnh, những người Jacksonian nhận thấy rằng những quốc gia thù nghịch của Mĩ ở trong vùng, như Iraq và Iran, đồng thời cũng là những kẻ thù hung hăng nhất của Israel.

Những người Jacksonian chiêm ngưỡng chiến công và chiến thắng hoàn toàn là chiến công đẹp nhất. Chiến thắng hoàn toàn, với sức mạnh áp đảo của các binh chủng Israel năm 1967 trước kẻ thù có quân số lớn hơn đến từ ba nước khác nhau là điều mà Jacksonians rất mơ ước – nhất là vào một thời điểm mà khả năng chiến đấu yếu kém của Hoa Kì tại Việt Nam đã khiến nhiều Jacksonians đâm ra bi quan về tương lai của quốc gia mình. Kể từ đó, chính một số hành động quân sự đã làm tổn thương uy tín của Israel đối với hầu hết các nước trên thế giới – chẳng hạn những phản ứng quá đáng đối với quân khủng bố Pa-let-tin – lại gia tăng hậu thuẫn cho quốc gia này từ phía Jacksonians.

Đôi khi chỉ vài đạn pháo từ dải Gaza bắn vào lãnh thổ Israel, quân đội Israel lại phản ứng bằng một hoả lực mạnh hơn, gây nhiều đổ nác và nhiều thương vong hơn. Trong con mắt của phần lớn thế giới, đây là sự trả đũa quá đáng, một vi phạm tương đương hay thậm chí nghiêm trọng hơn cuộc tấn công của kẻ gân hấn. Thế nhưng, Jacksonians coi mỗi loạt pháo kích của người Pa-lét-tin nhắm vào các mục tiêu ở Israel là một hành động khủng bố và họ cho rằng người Israel có toàn quyền, thậm chí có nghĩa vụ, trả đũa bằng tất cả sức mạnh có thể huy động được. Kể từ thập niên 1950, cứ mỗi lần quân đặc công Palestine lẻn qua đường ngưng bắn để tấn công các khu định cư của Israel, nhiều người Pa-lét-tin và người Ả-rập lại biện minh rằng những cuộc đột nhập này là hành động rất can đảm mặc dù phải đối đầu với một hoả lực dữ dội, trấn áp. Nhưng những vụ đột kích nhắm vào các mục tiêu dân sự, và nhất là các vụ tấn công dùng bom tự sát, lại vi phạm các nguyên tắcJacksonian cơ bản về phương thức tiến hành một cuộc chiến văn minh. Những người Jacksonian cho rằng chỉ có một sự trả đủa trấn ác và triệt để chống lại các chiến thuật như thế mới chận đứng việc đặc công đánh phá thêm nữa. Đây là cách người Mĩ sống ở vùng biên đã đối phó với người da đỏ, là cách mà tướng Liên bang [miền Bắc] William Sherman “đã dạy một bài học” cho quân dân miền Nam trong Nội chiến Mĩ, và cũng là cách tướng Douglas MacArthur và Truman đã trả lại cho người Nhật món nợ Pearl Harbor. Những người Jacksonian thực tình không hiểu được vì sao thế giới lại chỉ trích Israel vì đã hành sử điều mà họ cho là quyền tự vệ không khoan nhượng – vì đã làm đúng những điều mà chính họ cũng phải làm nếu ở vào vị trí của Israel.

Theo quan điểm của người Pa-lét-tin và những người hậu thuẫn họ, người Pa-lét-tin – bị lưu vong, bị cho ra rìa, bị chiếm đóng, bị chia rẽ – là những người yếu thế nhưng anh hùng, dám đương đầu với một siêu cường trong vùng, mà siêu cường này lại được hậu thuẫn của một nước mạnh nhất thế giới. Nhưng theo quan điểm Jacksonian, Israel, dù với tất cả sức mạnh và chiến công của mình, vẫn chỉ là cậu bé David đang lâm nguy, “tứ bề thọ địch”. Sự thể người Ả-rập và toàn thể cộng đồng gồm một tỉ tín đồ Hồi giáo hậu thuẫn chính nghĩa của người Pa-lét-tin, chí ít bằng khẩu hiệu, đã khiến những người Jacksoniancàng tin thêm rằng Israel là một nước nhỏ bé và đang lâm nguy, đáng được giúp đỡ. Bẽ bàng là, một số thành công quân sự chính trị to lớn nhất của phong trào Pa-let-tin – như triển khai một cuộc kháng chiến võ trang năng động, giành được hậu thuẫn (phần lớn chỉ là khẩu khí) từ các tổ chức như Liên minh Ả-rập và ngay cả Đại hội đồng Liên hiệp quốc, chuyển dịch cơ sở chính trị của cuộc kháng chiến Pa-let-tin từ chủ nghĩa dân tộc thế tục (secular nationalism) sang lãnh vực tôn giáo, và giành được hậu thuẫn của các nước mạnh trong vùng như Iraq dưới thời Saddam và Iran ngày nay – rốt cuộc mang lại hậu quả là những thành công này chỉ tăng cường cũng cố thêm sự hậu thuẫn của người dân ngoại Do Mĩ cho quốc gia Do Thái.

Một yếu tố quan trọng khác dẫn đến việc người Mĩ gia tăng hậu thuẫn cho Israel là, kể từ 1967 một loạt phong trào gây lại niềm tin tôn giáo diễn ra đều khắp nước Mĩ, mang lại những hậu quả quan trọng trong thái độ của dân chúng đối với vùng Trung Đông. Một hậu quả là, trong khi các giáo phái Tin Lành chính mạch cởi mở chỉ trích Israel nhiều hơn, họ đánh mất luôn ảnh hưởng chính trị và xã hội của chính mình. Một hậu quả khác là, vai trò của chủ nghĩa Xi-ôn-nít tiên tri (prophetic Zionism) tăng lên đáng kể, với sự kiện tín đồ Ki-tô giáo Tin Lành và chính thống [21] Mĩ hiện nay quan tâm hơn bao giờ cả về những lời tiên tri trong kinh thánh và về vai trò của Israel trên quá trình dẫn đến sự khải huyền [tận thế].

Nhiều tín đồ Ki-tô giáo Tin Lành và chính thống đã không mấy quan tâm đến Israel sau cuộc chiến giành độc lập của nước này. Theo chỗ họ hiểu, những lời tiên tri trong kinh thánh rõ ràng dự kiến người Do Thái sẽ xây lại Ngôi đền trên vị trí cũ của nó; vì thế họ suy diễn, khi những vị trí thiêng liêng của Jerusalem vẫn còn nằm trong tay người Ả-rập, thì tiến trình dẫn đến ngày tận thế có vẻ đã chậm lại. Trong khi đó, nước Israel thế tục và gần như xã hội chủ nghĩa trong thập niên 1950 ít lôi cuốn người Ki-tô giáo bảo thủ hơn lôi cuốn người Ki-tô giáo cởi mở. Vì phải để mắt vào mối đe dọa cộng sản trong những năm cao điểm của Chiến tranh lạnh, tín đồ Ki-tô giáo Tin Lành và chính thống ít tích cực tham gia vào chính sách Mĩ ở Trung Đông như họ đã từng tham gia vào thế kỉ 19.

Cuộc chiến Sáu ngày đã thay đổi thái độ đó; nó là lực xúc tác cho phong trào phục hoạt phúc âm và tiếp sức cho chủ nghĩa Xi-ôn-nít tiên tri. Tính chớp nhoáng và tính quyết định của thắng lợi mà Israel đạt được là một phép lạ trong mắt của nhiều người Mĩ; Israel chiếm được Thành cổ (the Old City), điều này có nghĩa là vị trí của Ngôi đền đã về tay người Do Thái. Cảm thức ngày tận thế đang tới gần là một lực tác động mạnh mẽ cho làn sóng phục hoạt tôn giáo tại Mĩ, một phong trào được khởi động trong giai đoạn này. Kể từ đó đến nay, một loạt sách truyện thuộc loại bán chạy nhất, hư cấu cũng như phi-hư cấu, đã nhắm vào sở thích của hàng triệu người Mĩ trong khả năng là ngày tận thế đang triển khai tại Trung Đông, như đã được các ngôn sứ tiên tri trong Cựu ước và Tân ước.

Từ khi Chiến tranh Lạnh chấm dứt, thêm một lực tác động nữa đã tăng cường những quan hệ giữa quốc gia Israel và nhiều người Ki tô giáo bảo thủ của Mĩ. Khi cuộc phục hưng tôn giáo mang lại sức mạnh và sinh lực mới cho các giáo hội Tin Lành và chính thống, họ lại càng quan tâm nhiều hơn đến thế giới bên ngoài. Trong quá khứ những cuộc phục hưng tôn giáo như thế đã dẫn đến các cao trào truyền giáo đầy nhiệt tình và rất năng động; cuộc phục hưng tôn giáo hiện nay không khác bao nhiêu. Và khi người Ki-tô giáo Mĩ đã quan tâm nhiều hơn đến an sinh của Ki-tô hữu khắp thế giới, họ đã gặp phải địch thủ quan trọng nhất của Ki-tô giáo toàn cầu, đó là Hồi giáo, và họ bắt đầu nhận chân rằng tình cảnh của người Ki-tô giáo tại một số nước có đa số theo Hồi giáo không được khả quan cho lắm.

Mối quan tâm về người Ki-tô giáo bị bách hại khắp thế giới là nét đặc trưng trường kì của Ki-tô giáo, và điều này không phải chỉ riêng ở Mĩ mới có. Trong quá khứ, chính những nhà lãnh đạo các giáo hội từng tham gia các nỗ lực bảo vệ người Do Thái ở châu Âu và Đế quốc Ottoman thường cũng là những người tham gia các chiến dịch bảo vệ các tín đồ Ki-tô giáo tại Trung Quốc, Triều Tiên, Nhật bản, và Đế quốc Ottaman cùng các nơi khác trên thế giới. Phong trào cộng sản, được coi như kẻ thù hung bạo nhất của tôn giáo trong thế kỉ 20, nhiên hậu đã thúc đẩy tín đồ Ki-tô giáo Mĩ xây dựng những tổ chức nhằm hậu thuẫn các tín hữu ở sau Bức màn sắt. Từ năm 1989, sự bách hại tín đồ Ki-tô giáo do bàn tay cộng sản đã giảm nhiều (mặc dù chưa biến mất), và nhờ vậy càng ngày trọng tâm của mối quan ngại càng chuyển qua Trung Đông, nơi nhiều tín đồ Ki-tố giáo và tín đồ của các đức tin khác hay người không theo tôn giáo nào hiện bị phân biệt đối xử về mặt xã hội và pháp lí – và cũng là nơi, lắm khi tín đồ Ki-tô giáo bị đánh đập và sát hại vì đức tin của mình. Luật pháp của nhiều nước Hồi giáo còn cấm truyền đạo và cải đạo – những vấn đề chiếm được quan tâm sâu sắc nhất của người Ki-tô rao giảng Phúc âm (evangelical Christians), những người tin rằng kẻ nào đến phút lâm chung mà chưa tiếp nhận Đức Ki-tô vào lòng thì sẽ chịu cực hình trong hoả ngục và rằng sự nghiệp truyền bá đức tin Ki-tô giáo là một trong những nghĩa vụ đạo lí trung tâm. Những cơ quan truyền thông chính mạch của Mĩ thường không coi nạn bách hại các tín đồ Ki-tô giáo ở nước ngoài là trọng tâm chính cho việc đưa tin của họ, nhưng sự thờ ơ này không ngăn cản được vấn đề tôn giáo ảnh hưởng lên quan điểm của nhiều người Mĩ đối với Hồi giáo và, nói rộng ra, đối với cuộc xung đột giữa Israel với một số nước láng giềng.

Dư luận tại Hoa Kì về vấn đề Trung Đông không phải là một khối thuần nhất, cũng không phải bất di bất dịch qua thời gian. Từ 1967 đến nay, nó đã kinh qua nhiều chuyển dịch, một số tổ chức hoặc nhóm cử tri trở nên thiện cảm hơn với Israel và một số khác thì ngược lại. Càng ngày người Mĩ gốc châu Phi càng ít ủng hộ đảng Likud hiện nay hơn họ đã từng hậu thuẫn quân đội Do Thái trong Thế chiến II. Thêm nhiều thay đổi có thể xảy ra. Một giới lãnh đạo Pa-let-tin và Ả-rập nhạy cảm hơn đối với những giá trị và những ưu tiên chính trị của nền văn hóa chính trị Mĩ có thể đã phát triển được những chiến thuật mới mẻ và hiệu quả hơn nhằm làm suy yếu, thay vì tăng cường, hậu thuẫn của Mĩ dành cho quốc gia Do Thái. Chẳng hạn, nếu chịu chấm dứt những cuộc tấn công khủng bố để tiến hành một cuộc đấu tranh dân sự bất bạo động có kĩ luật và có tổ chức, họ có thể đã thay đổi được cách nhìn của những người Jacksonian về cuộc tranh đấu của người Pa-let-tin. Một khả năng hoàn toàn có thể xảy ra là, dần dà qua thời gian những tín đồ Tin Lành-chính thống Mĩ sẽ theo bước chân của Jimmy Carter, khi ông ta đi từ một chủ nghĩa Xi-ôn-nít trẻ trung đến một lập trường mà ông cho là quân bình hơn như hiện nay. Nhưng nếu Israel phải đối đầu với bất cứ một cuộc khủng hoảng nghiêm trọng nào, dư luận Mĩ sẽ chuyển hướng ngược lại, và đây có vẻ là một khả năng còn lớn hơn. Nhiều thành phần trong số những người Mĩ ngày nay kêu gọi một chính sách quân bình hơn đối với người Pa-lét-tin, sở dĩ làm như vậy, là vì họ tin rằng trên cơ bản Israel đã được an ninh. Nếu một lúc nào đó thẩm định này thay đổi, những cuộc thăm dò dư luận quần chúng rất có thể sẽ chứng tỏ mức độ hậu thuẫn của Mĩ dành cho Israel còn cao hơn hiện nay.

Chí ít có một điều gần như hiển nhiên. Trong tương lai cũng như trong quá khứ, dù có tốt hơn hoặc xấu hơn, chính sách ngoại giao của Hoa Kì đối với Trung Đông vẫn tiếp tục được hình thành bởi ý chí của đại đa số dân Mĩ, chứ không bởi những thủ thuật hay mưu mô của bất cứ nhóm thiểu số nào, dù một số thành viên của nhóm này có giàu có hay tích cực tham gia vào tiến trình chính trị đến thế mấy đi nữa.

Walter Russell Mead là chuyên viên cấp cao trong chương trình Henry A. Kissinger về Chính sách đối ngoại Hoa Kì ở Hội đồng nghiên cứu Quan hệ đối ngoại và, gần đây nhất, là tác giả của cuốn God and Gold: Britain, America, and the Making of the Modern World (Chúa và Vàng: Anh, Mĩ và Sự hình thành của Thế giới Ngày nay).

Nguồn: Walter Russell Mead, “The New Israel and the Old. Why Gentile Americans Back the Jewish State?”, Foreign Affairs, July/August 2008.

Từ thế hệ trước sang thế hệ sau, các chính trị gia của nước Mỹ liên tục lên tiếng ủng hộ Israel và đưa ra các chính sách có lợi cho Israel.

Người Mỹ làm thế một phần vì tính toán chiến lược của quốc gia, nhưng cũng một phần vì họ đã cam kết với các tổ chức như AIPAC - Hội đồng Quan hệ Mỹ - Israel. Trong một số trường hợp, các tổ chức vận động hành lang vì quyền lợi của Israel này trực tiếp nắm giữ sinh mạng chính trị của nhiều chính trị gia, trong khi đồng minh của họ có mặt tại các toà soạn, đài truyền hình,… tiếp tục nhiệm vụ tuyên truyền thông điệp ủng hộ Israel đến với công chúng Mỹ.

Vậy làm cách nào mà một mạng lưới vận động hành lang cho Israel được sinh ra và lớn mạnh ở Mỹ?! Điều này có lịch sử từ rất lâu đời và thậm chí nó được bắt đầu từ trước cả khi quốc gia Israel tuyên bố độc lập. Lịch sử của Israel gắn liền với việc vận động hành lang ở Mỹ.

Sau khi Chiến tranh Thế giới thứ hai kết thúc, Liên hiệp quốc khi đó mới được thành lập đã họp lại và đồng ý cho phép người Do Thái cùng nhau lập một nhà nước của riêng họ tại Palestine.

Thế rồi, nhờ vào các cá nhân, tổ chức vận động hành lang mà người Do Thái tại Mỹ mới thuyết phục được chính phủ của họ đồng ý với quyết định trên tại Liên hiệp quốc. Tiền thân của AIPAC cũng được thành lập trong khoảng thời gian này và dần dần trở nên lớn mạnh.

Ban đầu thì Israel đứng về phía Liên Xô (cũ) trong thời Chiến tranh lạnh. Mặc dù vậy, kể từ năm 1967 thuộc thế kỷ trước trở đi, Israel dần dần trở thành một trong những đồng minh thân cận nhất của Mỹ.

Họ rất cần sự bảo hộ của Mỹ để có thể tồn tại được trước không những các phong trào giải phóng đòi lại độc lập cho Palestine, mà còn đối với các quốc gia vùng Vịnh và Bắc Phi như Ai Cập, Yemen, Quatar, Ả-rập Xê-út, v.v… vốn theo đạo Hồi và tin rằng: Jerusalem phải thuộc về người Hồi giáo.

Hầu hết các quốc gia này đều ít nhiều có sự phụ thuộc vào Nhà Trắng, vậy nên khi Israel trở thành đồng minh của Mỹ, họ muốn cũng khó mà làm gì được Israel.

Trong hàng chục năm vừa qua, Israel đã phải tốn nhiều công sức để tạo dựng được một mạng lưới vận động hành lang cho mình tại Mỹ. Quyền lực thật sự của mạng lưới này lớn đến đâu ít người biết rõ, nhưng có một điều hiển nhiên rằng họ rất có sức ảnh hưởng lên chính quyền Mỹ. Mô hình hoạt động chung của họ là tìm những cá nhân giàu có và ủng hộ nhà nước Israel.

Sau khi kết nạp hội viên những cá nhân này, các tổ chức vận động hành lang sẽ lấy quyền lực của họ để đem ra thương lượng với giới chính trị Mỹ. Ở Mỹ ngoài lá phiếu cử tri ra, người ứng cử viên phải sở hữu một số vốn không nhỏ thì mới tranh cử thành công được. Bởi thế cho nên họ sẵn sàng đưa ra các cam kết ủng hộ Israel để nhận được lá phiếu bầu và tiền ủng hộ tranh cử từ hội viên các tổ chức vận động hành lang.

Các tổ chức như AIPAC có quan hệ rất chặt chẽ với chính phủ Israel, đặc biệt là với Bộ Ngoại giao nước này. Không năm nào mà AIPAC lại không mời một vị Bộ trưởng Ngoại giao hay thậm chí là Tổng thống Israel bay sang Mỹ để phát biểu. Khán giả chính của các buổi phát biểu này không chỉ gồm thành viên trong hội, mà còn cả những chính trị gia Mỹ nữa.

Người ta đến dự thính như một cách để khẳng định lại sự ủng hộ của mình đối với Israel, một chính quyền ngoại quốc. Ở những quốc gia khác thì những hành vi có màu sắc "mua bán phiếu bầu" như thế này sẽ cấu thành tội phạm, nhưng ở Mỹ thì họ hoàn toàn có quyền làm vậy do bản thân đất nước này có nhiều quy định rất lỏng lẻo trong việc kiểm soát hoạt động của chính trị gia trước, trong và sau bầu cử.

Một nhóm các cá nhân, tổ chức không thể không nhắc đến khi bàn về mối quan hệ giữa Mỹ và Israel là những người theo đạo Phúc Âm, một nhánh của Thiên Chúa giáo. Có một số lượng nhỏ những tín đồ Phúc Âm tin vào một lời sấm truyền như sau: Người Do Thái sẽ trở lại Đất Thánh (tức Jerusalem) và thành lập một đất nước của riêng người Do Thái (tức Israel).

Sau khi người Do Thái xây dựng xong Ngôi Đền Thứ Ba, ngày Khải Huyền sẽ tới. Chúa sẽ hạ thế và bắt đầu phán xét loài người. Những người Thiên Chúa giáo sẽ được lên thiên đường, còn những kẻ ngoại đạo sẽ phải xuống địa ngục.

Ngay cả nhiều người theo đạo Phúc Âm cũng không tin vào lời sấm truyền này, và nó bị các lãnh đạo của nhà thờ cực lực phản đối. Tuy vậy, những người đặt niềm tin vào "kịch bản" này sẵn sàng dùng hết những thứ gì mình có để đảm bảo rằng Nhà nước Israel sẽ tồn tại cho đến khi lời sấm truyền trở thành sự thật.

Ngay từ thế kỷ thứ 19 đã có những cá nhân ở Mỹ tuyên truyền cho việc giúp đỡ người Do Thái thành lập đất nước riêng của mình tại Jerusalem, trong đó có cả một vị tổ tiên của cha con cựu Tổng thống George Bush. Đến nay thì họ đã hợp thành một phong trào có đầy đủ các tổ chức, quỹ ủng hộ, toà soạn, v.v… Quyền lực đối với các cử chi, chính trị gia và báo giới của họ cũng lớn không thua kém gì với những nhóm nhận trợ giúp trực tiếp từ Israel, và hai bên thường xuyên cộng tác với nhau để làm "chao đảo" chính trường Mỹ.

Như một phần trong "tầm nhìn chiến lược" của mình, các cá nhân, tổ chức vận động hành lang cho Israel rất quan tâm tới những trường đại học tại Mỹ. Họ muốn giới trẻ Mỹ khi lớn lên cũng sẽ ủng hộ Israel như ông cha họ vậy. Xuất phát từ tư tưởng đó, người ta sử dụng tiềm lực tài chính để tài trợ cho các cá nhân sinh viên, hội nhóm, dự án nghiên cứu, v.v… trong trường đại học, đồng thời cho xuất bản các ấn phẩm truyền thông dành riêng cho sinh viên.

Ngược lại, nhiều người trẻ tại Mỹ lại rất mong muốn được làm việc cho các tổ chức vận động hành lang này. Có những người đã - đang thật sự ủng hộ Israel, nhưng số đông làm thế vì tham vọng của bản thân: họ muốn nhờ quan hệ của các tổ chức để tìm được một công việc danh giá tại công ty luật; công ty marketing; toà soạn, đài truyền hình, v.v… hay thậm chí là trở thành một chính trị gia nữa.

Tuy vậy, ngày càng có nhiều người trẻ tuổi tại Mỹ lại có thái độ chỉ trích Israel. Họ cảm thông trước cảnh sống khổ cực của người dân Palestine tại Dải Gaza dưới sự cai quản của Israel - người Palestine thiếu thực phẩm, thiếu nước sạch, không có việc làm, không được tự do đi lại, hội họp, v.v… Trong khi Mỹ, với vai trò của lãnh đạo thế giới của mình, lại làm ngơ trước sự bất công này.

Cách đây hơn một năm, Quốc hội Mỹ đã đưa ra bàn thảo một số biện pháp cấm vận Israel nhằm thúc giục chính quyền Tổng thống Benjamin Netanyahu nhanh chóng có biện pháp giải quyết khó khăn trong cuộc sống của người dân Palestine tại vùng lãnh thổ bị chiếm đóng. Tuy những biện pháp này đã bị bác đi, nhưng chúng cũng để lại một chấn động lớn trong chính trường Mỹ. Đã từ lâu lắm rồi nước Mỹ mới nghiêm túc xem xét việc trừng phạt Israel. Động lực chính đằng sau những biện pháp nói trên là một nhóm các hạ nghị sỹ nữ trẻ tuổi vừa mới được bầu vào Quốc hội Mỹ trong cuộc bầu cử 2018.

Cái cách mà mạng lưới vận động hành lang phản ứng với sự kiện nói trên đã thể hiện ra mặt tối của họ. Những nữ hạ nghị sỹ như Alexandria Ocasio-Cortez, Rashida Talib và Ilhan Omar trong nhóm ủng hộ việc cấm vận Israel đều xuất phát từ lòng thông cảm của họ đối với người dân Palestine tại Dải Gaza, đồng thời là sự giận dữ trước việc các chính trị gia Mỹ không giữ được thái độ độc lập của mình trước ảnh hưởng của Israel.

Đây đều là hai lý do chính đáng cho những hành động của họ. Tuy vậy, dưới sự chỉ đạo của các tổ chức vận động hành lang cho Israel, nhiều cơ quan truyền thông lại vu khống cho họ là có tư tưởng bài Do Thái, thậm chí là phát - xít nữa. Họ đặc biệt hướng sự tấn công của mình đối với hạ nghĩ sỹ Ilhan Omar vì cô vốn là một người Hồi giáo gốc Somali. Ngay cả các vị cử tri quốc hội Mỹ cũng bị vu cho những lời cáo buộc trắng trợn như thế, quả thật là một hành động khiến cho bất kỳ một người chân chính nào cũng phải tức giận.

Nhiệm vụ của chính phủ Israel là bảo vệ sự độc lập và quyền lợi của đất nước mình. Tuy vậy, dường như họ đang quên đi lằn ranh giới hạn. Israel đang gây ảnh hướng lớn lên việc chính phủ Mỹ điều hành chính sách đối ngoại, và để đạt được mục đích đó các cá nhân, tổ chức vận động hành lang sẵn sàng làm những việc không minh bạch, chân chính chút nào.

Trong tương lai gần thì hậu quả của những hành động này khó có thể diễn ra, và gần như chắc chắn rằng Mỹ sẽ còn tiếp tục ủng hộ mạnh mẽ Israel trên trường quốc tế. Nhưng một mối quan hệ ngoại giao xây dựng trên nền tảng những lời nói dối và các quan hệ mờ ám khó có thể tồn tại bền vững trong dài lâu được.

Trả lời luôn : Không thân ai hết, ai cũng chơi chứ nhất quyết không thân hay có ý định làm đồng minh với ai, thế cho nhanh.

Sách trắng quốc phòng nước Cộng Hoà X...

Thân Mỹ hay Trung Quốc là tốt?@@@@@Trả lời luôn : Không thân ai hết, ai cũng chơi chứ nhất quyết không thân hay có ý định làm đồng minh với ai, thế cho nhanh.Sách trắng quốc phòng nước Cộng Hoà Xã Hội Chủ Nghĩa Việt Nam nêu rõ: Việt Nam không theo nước nào, không chống quốc gia nào và không cho bất cứ nước nào đặt căn cứ quân sự trên lãnh thổ Việt Nam: chúng ta ủng hộ 1 nước Trung Quốc thống nhất không công nhận Đài Loan nhưng vẫn mở cửa cho Đài Loan vào làm ăn mà anh Trung Hoa Đại Lục có nhìn thấy cũng không làm gì được; ủng hộ nhân dân Palestin nhưng có mối quan hệ quốc phòng cấp chiến lược và mua 1 đống “hàng nóng” của Israel; Viện trợ cho Triều Tiên nhưng vẫn chơi với Hàn Quốc; Ca ngợi quan hệ đối tác toàn diện với Mỹ nhưng sẵn sàng đứng trước Liên Hiệp Quốc kêu gọi các nước đoàn kết chống lại nghị quyết trừng phạt Cuba của Mỹ …. Đấy đối tác toàn diện đấy, hỏi xem có đc bao nhiêu nước dám đứng lên như Việt Nam tuyên bố trước Liên Hiệp Quốc chống lại nghị quyết của Mỹ?Để làm được điều đó không sứt mẻ tình cảm anh em, không mất đi tình bằng hữu quốc tế thì tính độc lập tự cường của Việt Nam được thể hiện rõ trong quan điểm nhất quán của nhà nước và chính phủ, cũng như sự chỉ đạo và tài ngoại giao của các đời lãnh đạo Việt Nam. Trung tướng Nguyễn Quốc Thước từng nhận định:"Nếu chúng ta để người Trung Quốc tin rằng Việt Nam theo Mỹ, theo Nhật để bao vây, kiềm chế Trung Quốc như một số học giả của họ vẫn tuyên truyền, thì đừng nói Trường Sa của ta khó giữ, mà nguy cơ những ngón đòn tấn công có thể đổ ngay lên đầu chúng ta bất cứ lúc nào từ biên giới phía Bắc. Một khi để rơi vào thế đối đầu, Trung Quốc có nhiều con bài để chơi, dù bên nào thắng thì cả hai cũng sứt đầu mẻ trán. Với Hoa Kỳ, nếu chúng ta không cho họ thấy rõ thiện chí hợp tác bảo vệ hòa bình và luật pháp, công lý quốc tế mà một số quan điểm trong giới chính trị Hoa Kỳ vẫn nghĩ Việt Nam "lệ thuộc" Trung Quốc thì khó có thể tận dụng được vị thế, quan điểm, lập trường và sự ủng hộ của Hoa Kỳ ở Biển Đông. Việt Nam ta còn yếu về kinh tế, còn yếu về thực lực nhưng lại nằm giữa trung tâm mặt trận cạnh tranh địa chiến lược, địa chính trị gay gắt giữa hai siêu cường ở Thái Bình Dương là Hoa Kỳ và Trung Quốc. Ứng xử không khéo, chúng ta sẽ tự đẩy mình vào bi kịch”Tôi nói qua như vậy cho các bạn biết về chính sách của Việt Nam đối với thế giới để các bạn hiểu rõ cái tầm cái đã mới nói chuyện khác được.Một số bạn lý luận trên Facebook rằng “ơ kìa Trung Quốc gây hấn với ta, ta thân Mỹ để chống Trung Quốc”. Tôi đánh giá nhãn quan chính trị của những bạn này là cực kỳ kém cỏi. Một bên là hổ, 1 bên là beo. Bạn nhảy về phía nào cũng không toàn mạng cả. Các bạn đào đâu ra ý nghĩ ngu xuẩn đuổi hổ cửa trước rước beo cửa sau vậy? Bạn thân Mỹ để chống Trung Quốc ư? Lợi ích các bạn được bao nhiêu mà đòi Mỹ đánh đổi lợi ích của nước họ chỉ vì các bạn?! Tư Bản Chủ Nghĩa không có khái niệm cho không, họ chỉ xem lợi ích của họ là vĩnh cửu.Các bạn nói các bạn có tinh thần dân tộc! Vậy dân Trung Quốc không có tinh thần dân tộc chắc? Các bạn nói các bạn yêu nước! Vậy dân Trung Quốc không yêu nước chắc? Các bạn nói các bạn không sợ Trung Quốc, sẵn sàng đánh nhau với TQ! Vậy TQ nó ngán các bạn chắc? Cha ông chúng ta đã đánh nhau với Trung Quốc cả mấy nghìn năm rồi còn định đánh đến bao giờ?Một nước như Trung Quốc, với tỉ 4 dân nền kinh tế đứng nhất nhì thế giới, mà các bạn không biết cách lợi dụng vào nó mà kiếm tiền. Mạnh tầm cỡ như Nga, Mỹ, Nato còn phải dè chừng Trung Quốc các bạn là nghĩ sao mà đòi chống Trung Quốc để theo Mỹ ? Có tin nó đóng cho toàn bộ cửa khẩu vài tháng sau nông dân trong nước sẽ sống dở, chết dở không?! Các bạn ghét Trung Quốc 1 cách mù quáng để cho nó chi phối tất cả mọi hành động và suy nghĩ là cực kỳ nguy hiểm, đó là điều không hề tốt.Mỹ là ai ? Là giới tài phiệt nơi mà họ chỉ biết đến tiền, kinh doanh bất cứ cái gì ra tiền là họ làm hết kể cả xác chết, không tin chứ nhìn Syria, Lybia, Palestin, Iraq thì biết. Các bạn quên vụ Hilary Clinton mà lên là tổng thống sẽ bán đứt Đài Loan cho Trung Quốc để trả nợ cho Mỹ khiến cho giới quan chức Đài Loan khóc loạn xạ mấy tháng trời rồi à?Tôi nói thật, tôi mong mỏi đất nước này giữ được thế trung lập và chính sách ngoại giao độc lập vĩnh cửu như trên cho chính nhân dân được nhờ. Chỉ cần ngã nghiêng không vững, không Trung Quốc đánh thì Mỹ cũng đập, thiếu gì cách để gây chiến. Thời buổi bây giờ súng đạn làm gì, nó phong toả bao vây cấm vận đất nước các bạn thì rất có thể nhân dân các bạn sẽ dẫm đạp lên nhau mà chết như những người Hồi giáo hành hương đến thánh địa Mecca.Chừng nào mà chúng ta chưa bỏ cái thói sính tây cuồng ngoại, bài Trung Quốc, kích động thù hằn dân tộc thì đất nước chúng ta chẳng khác gì con Vàng trong truyện của Lão Hạc. Và chưa bao giờ mà câu nói của Winston Churchill đúng hơn lúc này: “Trên thế giới này không có đồng minh vĩnh viễn hay kẻ thù vĩnh viễn, chỉ có lợi ích quốc gia mới là vĩnh viễn”./.(TH)

Tại châu Âu, hành động giết hại thường dân Palestine của Israel đã gây nên một làn sóng phẫn nộ khủng khiếp đến mức người biểu tình không chỉ giương cao khẩu hiệu chống chủ nghĩa Zion (Chủ nghĩa phục quốc Do Thái) mà còn chống lại cả người Do Thái. Thậm chí, đã xuất hiện những cuộc tấn công trả đũa nhằm vào người Do Thái và các giáo đường Do Thái.

Ngày càng nhiều người châu Âu nhận thấy sự vô lương tâm của Israel qua các vụ phóng tên lửa giết chết hàng trăm trẻ em Palestine. Một biên tập viên của The Guardian đã nhận xét hành động này của Israel là “trường hợp đặc biệt của sự ghê tởm”.

Nước Mỹ thì ngược lại, họ luôn thể hiện sự ủng hộ mạnh mẽ với Israel. Tư tưởng hẫu thuận cho đất nước Do Thái luôn chiếm áp đảo trong chính giới Mỹ. Không chỉ người Mỹ gốc Do Thái, rất nhiều người Mỹ được nghe câu chuyện về một quốc gia Israel của những người nhập cư chạy trốn khỏi những kẻ đàn áp được hình thành trên miền Đất Thánh.

Người Mỹ vẫn thường phân định đúng sai rạch ròi. Đối với cuộc chiến tại Dải Gaza lần thứ 3 trong vòng 6 năm, họ giữ vững quan điểm rằng đây là một cuộc xung đột mà một nhà nước Do Thái dân chủ bị tấn công và đáp trả lại những tên khủng bố Hồi Giáo. “Sự ghê tởm” của người Mỹ được dành cho lực lượng Hamas.

Trong con mắt của người châu Âu, quan điểm về cuộc chiến Gaza của người Mỹ hoàn toàn sai lệch và cảm tính vì những nguyên nhân liên quan đến văn hóa và chính trị. Ở Mỹ, việc tuyên truyền về những hành động giết hại hàng trăm trẻ em Palestine của người Israel là điều hết sức khó khăn. Họ thường truyền tai nhau những câu chuyện về việc triển khai mạnh mẽ các nhà tù của lực lượng Hamas hay việc người Israel luôn giành sự ưu tiên những người Palestine ôn hòa trong vấn đề mở rộng khu định cư của họ ở Bờ Tây và hứa hẹn với họ về một vùng đất nằm giữa Địa Trung Hải và sông Jordan.

Tuy nhiên, tình hình ở Mỹ đã có chút thay đổi. Nhiều người đã chứng kiến hình ảnh hàng triệu người Palestine bị áp bức và phải sống trong cảnh tủi nhục dưới sự cai trị của Israel. Nhiều thành viên trong Quốc hội Mỹ đã đưa ra ý kiến phản đối các hành động ủng hộ Israel của Mỹ. Họ cho rằng sự ủng hộ đối với quốc gia Do Thái này không phục vụ lợi ích lâu dài của Mỹ và yêu cầu Mỹ cần có vị trí trung gian hơn nhằm đạt được hòa bình tại khu vực này.

Trên các mạng xã hội Facebook, Twitter, giới trẻ Mỹ liên tục chia sẻ những hình ảnh về nỗi đau khổ của người Palestine. Trong cuộc khảo sát gần đây của trung tâm nghiên cứu Pew, 53% số người Mỹ trên 65 tuổi đổ lỗi cho lực lượng Hamas đã gây nên cuộc chiến này trong khi chỉ có 15% cho rằng lỗi đó thuộc về người Israel. Đối với những người Mỹ trong độ tuổi 18-29, có tới 29% cho rằng người Israel phải chịu trách nhiệm cho những hậu quả của cuộc xung đột và chỉ có 21% người được hỏi đổ lỗi cho phong trào Hamas.

Như vậy, người Mỹ, dù chỉ là một số ít đã có nhận thức khác về cuộc xung đột đẫm máu tại Dải Gaza. Khi sự ủng hộ của người Mỹ đối với Israel bị giảm sút hơn nữa, chính sách của Mỹ tại khu vực Dải Gaza liệu có thay đổi và các cuộc đàm phán giữa các bên về một thỏa thuận hòa bình có thể tiến triển được hay không. Đó là câu hỏi mà bất kỳ ai trong chúng ta cũng khó mà có được câu trả lời chính xác./.

Mỹ như đang quay lại thời điểm của các cuộc biểu tình lịch sử chống lại Chiến tranh Việt Nam và chế độ phân biệt chủng tộc ở Nam Phi.

Cảnh sát Mỹ đã bắt giữ sinh viên biểu tình tại Đại học Nam California (USC), vài giờ sau khi hàng chục người biểu tình tại Đại học Texas bị bắt giữ một cách thô bạo, trong cuộc đụng độ mới nhất giữa lực lượng thực thi pháp luật Mỹ và những người phản đối cuộc chiến Israel-Hamas ở các trường đại học trên toàn nước Mỹ.

Trong khi một số trường đại học đang nỗ lực xoa dịu tình trạng bất ổn trước khi lực lượng thực thi pháp luật can thiệp thì các vụ bắt giữ ở California hoàn toàn trái ngược với sự hỗn loạn xảy ra chỉ vài giờ trước đó tại Đại học Texas ở Austin. Hàng trăm cảnh sát địa phương và tiểu bang - trong đó có một số người cưỡi ngựa và cầm dùi cui - đã lao vào quật ngã một số người biểu tình xuống đường.

Theo Bộ An toàn công cộng bang, các cảnh sát đã tiến vào đám đông và thực hiện 34 vụ bắt giữ theo lệnh của Thống đốc bang Texas Gregg Abbott. Một nhiếp ảnh gia của Fox 7 Austin (KTBC) đang ghi hình vụ việc thì sĩ quan kéo ngã xuống đất, Đài KTBC xác nhận nhiếp ảnh gia đã bị bắt. Một nhà báo lâu năm ở Texas đã bị đánh gục trong tình trạng hỗn loạn và sau đó cảnh sát đã giúp ông gọi cấp cứu.

Nằm về phía Bắc của Đại học USC, Đại học Bách khoa Bang California đã lập rào chắn bên trong một tòa nhà, đóng cửa khuôn viên trường vào cuối tuần và tổ chức các lớp học trực tuyến. Đại học Harvard ở Massachusetts đã tìm cách đón đầu các cuộc biểu tình trong tuần này bằng cách hạn chế quyền tiếp cận và từ chối yêu cầu cấp phép tụ tập.

Nhưng, điều đó không ngăn cản được những người biểu tình dựng trại với 14 lều sau khi trường đại học đình chỉ Ủy ban Đoàn kết Palestine của giới sinh viên Đại học Harvard. Các sinh viên phản đối cuộc chiến Israel-Hamas đang yêu cầu các trường học cắt đứt quan hệ tài chính với Israel và thoái vốn khỏi các công ty gây ra xung đột kéo dài nhiều tháng. Một số sinh viên Do Thái nói rằng các cuộc biểu tình đã chuyển sang chủ nghĩa bài Do Thái và khiến họ ngại đặt chân vào khuôn viên trường, một phần khiến các trường đại học buộc phải có biện pháp nặng tay hơn.

Tại Đại học New York tuần này, cảnh sát Mỹ cho biết 133 người biểu tình đã bị bắt giữ. Đại học Columbia đã ngăn chặn một cuộc đối đầu khác giữa sinh viên và cảnh sát. Hiệu trưởng Đại học Minouche Shafik đã đặt ra thời hạn nửa đêm để đạt được thỏa thuận giải phóng khu cắm trại, nhưng trường đã gia hạn đàm phán và cho biết sẽ tiếp tục đàm phán với những người biểu tình.

Cảnh sát Mỹ lần đầu tiên cố gắng giải tỏa khu trại ở Đại học Columbia vào tuần trước, khi họ bắt giữ hơn 100 người biểu tình. Nhưng, động thái này đã phản tác dụng khi đóng vai trò là nguồn cảm hứng cho các sinh viên khác trên khắp đất nước dựng trại tương tự và thúc đẩy những người biểu tình ở Columbia đoàn kết hơn. Trong khuôn viên Đại học Minnesota, hàng chục sinh viên đã biểu tình một ngày sau khi 9 người biểu tình bị bắt khi cảnh sát giải tán khu cắm trại phía trước thư viện. Hạ nghị sĩ Mỹ Ilhan Omar, có con gái nằm trong số những người biểu tình bị bắt tại Đại học Columbia vào tuần trước khi đã tham dự một cuộc biểu tình vào cuối ngày.

Tờ Times of Israel đưa tin rằng “sự lan rộng của các cuộc biểu tình chống Israel được khuyến khích và tôn vinh bởi các nhà hoạt động ủng hộ Palestine. Điều này làm dấy lên mối lo ngại giữa các nhóm Do Thái trong khuôn viên các trường đại học, những người đang kêu gọi các nhà quản lý có hành động quyết liệt hơn”. Truyền thông Israel kết luận: “Tổng thống Mỹ Joe Biden cũng lên án sự trỗi dậy của chủ nghĩa bài Do Thái trong nhiều cuộc biểu tình, nhưng dường như cũng kêu gọi sự thông cảm đối với những người biểu tình”. AFP cho biết: “Tại Mỹ đã bắt đầu có sự gia tăng các vụ việc bài Do Thái và bài Hồi giáo”.

Những cuộc biểu tình này gây ra nhiều phản ứng, bao gồm cả phản ứng chính trị. Tổng thống Joe Biden đã lên án trong một tuyên bố điều mà ông gọi là “chủ nghĩa bài Do Thái trắng trợn, đáng trách và nguy hiểm, hoàn toàn không có chỗ đứng trong khuôn viên trường đại học hoặc bất cứ nơi nào trên đất nước”.

Thị trưởng New York Eric Adams cũng chỉ trích những gì ông nhìn thấy ở thành phố của mình. Các quan chức của đảng Dân chủ cũng cảnh báo về các khẩu hiệu và hành vi bài Do Thái. Những hành vi này cũng bị 10 đại biểu đảng Cộng hòa của bang New York lên án, họ kêu gọi Hiệu trưởng Đại học Columbia từ chức. Họ được lãnh đạo bởi Elise Stefanik, người đã từng rất quyết liệt trong phiên điều trần của một số lãnh đạo trường đại học vào mùa thu, bị cáo buộc yếu đuối khi đối mặt với chủ nghĩa bài Do Thái và một số người trong số họ đã từ chức.

Ngoài ra, còn có những phản ứng từ giới kinh tế. Ví dụ, chủ sở hữu của đội bóng đá New England Patriots, Robert Kraft, một cựu sinh viên Columbia có một tòa nhà mang tên ông. Ông Kraft giải thích rằng ông đã không còn nhận ra ngôi trường đại học mà mình vô cùng yêu quý và quyết định ngừng tài trợ cho trường cho đến khi các biện pháp được thực hiện.

Các cuộc biểu tình đã khiến sinh viên đọ sức với nhau, trong đó sinh viên ủng hộ Palestine yêu cầu các trường đại học lên án cuộc tấn công của Israel vào Dải Gaza và kêu gọi thoái vốn khỏi các công ty bán vũ khí cho Israel. Trong khi đó, một số sinh viên Do Thái nói rằng phần lớn những lời chỉ trích Israel đã chuyển sang chủ nghĩa bài Do Thái và khiến họ gặp nguy hiểm. AFP kết luận: “Phần lớn người Mỹ hiện không tán thành hành động của Israel ở Gaza, một cuộc thăm dò gần đây của Gallup đã cho thấy điều đó”.

Bộ trưởng Quốc phòng Israel Yoav Gallant đã hủy chuyến thăm Mỹ giữa lúc truyền thông Israel đưa tin Thủ tướng Benjamin Netanyahu muốn thảo luận trước với Tổng thống Mỹ Joe Biden.

Việc hủy bỏ bất ngờ diễn ra trong bối cảnh căng thẳng gia tăng giữa Israel và Iran khi Israel cân nhắc các lựa chọn để đáp trả cuộc tấn công bằng tên lửa của Iran vào tuần trước, là cuộc tấn công thứ 2 trong năm nay nhằm vào Israel.

Bộ Quốc phòng Mỹ từ chối cho biết lý do ông Gallant hủy chuyến thăm. Văn phòng của Thủ tướng Israel Benjamin Netanyahu và Bộ trưởng Quốc phòng Yoav Gallant cũng chưa đưa ra bình luận.

Hãng tin Ynet của Israel đưa tin Bộ trưởng Quốc phòng Yoav Gallant hy vọng chuyến thăm Mỹ của ông sẽ tăng cường sự phối hợp về vấn đề Iran, nhưng vài giờ trước khi khởi hành, Thủ tướng Benjamin Netanyahu đã đặt ra 2 điều kiện tiên quyết: Điện đàm với Tổng thống Mỹ Biden và Nội các Israel phê duyệt phản ứng đối với Iran.

Bộ trưởng Ngoại giao Iran cho biết bất kỳ cuộc tấn công nào vào cơ sở hạ tầng của Iran đều sẽ bị trả đũa. Iran cũng cảnh cáo các quốc gia vùng Vịnh sẽ bị phản ứng mạnh nếu cho phép không phận của mình được sử dụng để chống lại Iran.

Nếu căng thẳng Israel - Iran leo thang hơn nữa sau đòn tập kích của Tehran, Mỹ đối mặt nguy cơ sa vào cuộc xung đột mà họ luôn cố tránh.

Iran ngày 1/10 tập kích tên lửa ồ ạt vào Israel để phản ứng trước loạt cuộc tấn công gần đây của Tel Aviv nhằm vào các lãnh đạo cấp cao Hezbollah, Hamas và Lực lượng Vệ binh Cách mạng Hồi giáo Iran (IRGC). Thủ tướng Israel Benjamin Netanyahu tuyên bố Iran đã "phạm sai lầm nghiêm trọng" và sẽ phải "trả giá", làm dấy lên nguy cơ các bên có thể bị kéo vào một cuộc xung đột toàn diện.

Sau cuộc tập kích, Ngoại trưởng Iran Abbas Araghchi cho hay đã thông qua đại sứ quán Thụy Sĩ tại Tehran để cảnh báo Mỹ không can dự vào xung đột Trung Đông. Ngoại trưởng Iran khẳng định chiến dịch tấn công Israel đã kết thúc và "chúng tôi không có ý định tiếp tục", nhưng nhấn mạnh Iran sẽ có hành động quyết liệt hơn nếu Israel quyết định trả đũa.

Nếu Israel có hành động đáp trả như tuyên bố của Thủ tướng Netanyahu và Iran tiếp tục phản ứng leo thang, khu vực Trung Đông sẽ đối mặt với lò lửa chiến tranh có thể đẩy hàng triệu người vào thảm cảnh.

Nhiều người hy vọng bằng cách nào đó, đà leo thang xung đột sẽ bị chặn đứng. Nhưng rủi ro hiện vẫn rất lớn và nếu Mỹ sa lầy vào một cuộc chiến toàn diện ở Trung Đông, mọi trách nhiệm có thể sẽ bị quy cho Tổng thống Joe Biden.

Tổng thống Mỹ Joe Biden tại Nhà Trắng hôm 1/10. Ảnh: AFP

Theo Trita Parsi, đồng sáng lập kiêm phó chủ tịch điều hành Viện Quincy về Chính sách Nhà nước Có trách nhiệm, trụ sở tại Washington, Nhà Trắng đã nhiều lần chọn cách giữ Mỹ đứng trên bờ vực xung đột, thay vì kiềm chế Israel tăng cường các hành động quân sự với loạt đối thủ trong khu vực, trong đó có kình địch Iran.

Parsi cho rằng chính quyền Biden đã góp phần tạo ra tình cảnh như hiện nay, khi tiếp tục cung cấp cho Israel vũ khí, hỗ trợ ngoại giao và nguồn lực để Tel Aviv theo đuổi hành động leo thang với Tehran và các nhóm vũ trang trong khu vực như Hamas, Hezbollah, Houthi, điều mà Washington tuyên bố không muốn xảy ra.

Chiến lược của Mỹ là tìm cách ngăn chặn Iran và các lực lượng đồng minh trả đũa Israel, trong khi hầu như không làm gì để ngăn cản Tel Aviv leo thang ngay từ đầu. Cách tiếp cận mất cân bằng này thực tế là công thức cho căng thẳng gia tăng, khi Mỹ không có ý định gây áp lực lên Israel, Parsi giải thích.

Giờ đây, trước cuộc tập kích tên lửa của Iran, Mỹ chắc chắn sẽ phải hành động nhằm duy trì an ninh ở Trung Đông. Tuy nhiên, theo giới quan sát, Tổng thống Biden hiện đứng trước tình thế tiến thoái lưỡng nan, khi ông bị mắc kẹt giữa lời hứa chấm dứt xung đột ở Gaza với việc tiếp tục ủng hộ Tel Aviv trên một mặt trận khác đang nóng lên từng ngày.

Tuần trước, khi Mỹ thất bại trong nỗ lực đảm bảo một thỏa thuận ngừng bắn giữa Israel và Hezbollah, Ngoại trưởng Antony Blinken đã cảnh báo rằng nguy cơ leo thang trong khu vực là rất lớn và ngoại giao là con đường duy nhất để giảm căng thẳng.

Blinken khẳng định một nỗ lực phối hợp quốc tế là rất quan trọng "để tránh một cuộc xung đột toàn diện". Nhưng kể từ đó, Israel đã tận dụng lợi thế tình báo của mình để hạ sát hầu hết chỉ huy Hezbollah và còn mở chiến dịch trên bộ tại Lebanon.

Chính quyền Biden hiện phải đối mặt với thực tế khắc nghiệt rằng triển vọng ngừng bắn giữa Israel với Hamas ở Gaza và lệnh ngừng bắn giữa Israel với Hezbollah ở Lebanon có vẻ không thực tế, nếu không muốn nói là ngoài tầm với, khi các sự kiện vượt ra khỏi tính toán trước đó của Washington.

Hai cựu quan chức chính quyền Biden cho hay trước chiến dịch tấn công của Israel nhằm vào Hezbollah, Washington đã hạ thấp kỳ vọng và chỉ tập trung vào một mục tiêu duy nhất ở Trung Đông: Tránh leo thang căng thẳng với Iran. Nhưng mục tiêu đó càng trở nên xa vời sau đòn tập kích tên lửa của Tehran.

"Trong bối cảnh khu vực đang nóng hơn bao giờ hết và khả năng Israel sẽ đáp trả Iran, điều chắc chắn dẫn đến một số nỗ lực trả đũa tiếp nối từ Tehran, chúng ta sẽ đối mặt với quãng thời gian rất khó khăn ở phía trước", Suzanne Maloney, chuyên gia từ Trung tâm Chính sách Trung Đông thuộc Viện Brookings, Mỹ, nhận xét.

Iran từng tiến hành một cuộc tấn công trực tiếp vào Israel hồi tháng 4 bằng loạt tên lửa và máy bay không người lái (UAV). Israel sau đó phóng tên lửa trả đũa, đánh trúng hệ thống radar gần nơi Iran đang phát triển chương trình vũ khí hạt nhân. Tuy nhiên, đòn đáp trả này gần như chỉ mang tính biểu tượng và không kích hoạt phản ứng tiếp theo của Iran, giúp khu vực thoát khỏi nguy cơ xung đột lớn.

Nhưng theo Jonathan Schanzer, phó chủ tịch cấp cao phụ trách nghiên cứu tại Quỹ Bảo vệ Dân chủ, trụ sở tại Washington, lần này Israel có thể sẽ không đáp trả Iran bằng biện pháp "giơ cao đánh khẽ" như trước.

"Họ sẽ phải tăng áp lực trước khi hạ nhiệt", ông nói.

Khoảnh khắc Iran phóng loạt tên lửa đạn đạo về hướng Israel

Phòng không Israel đánh chặn tên lửa đạn đạo Iran ngày 1/10. Video: Reuters

Khi cả đôi bên đều giữ thái độ cứng rắn và ở vào tình thế buộc phải đáp trả đối phương, Schanzer cho rằng cơ hội hiện thực hóa mong muốn của chính quyền Biden, đưa xung đột đến hồi kết bằng giải pháp ngoại giao, là rất thấp.

Nếu Tổng thống Biden cho phép Israel leo thang hơn nữa, điều này rất có thể dẫn đến một cuộc đối đầu quân sự trực tiếp giữa Mỹ và Iran, gây mất ổn định trong khu vực. Rất khó định lượng hậu quả đối với an ninh quốc gia Mỹ từ một cuộc xung đột như vậy, nhưng nó sẽ khiến nhiều người liên tưởng tới những hệ lụy từ chủ nghĩa "phiêu lưu quân sự" mà chính quyền George W. Bush theo đuổi ở Trung Đông trước đây, chuyên gia Parsi từ Viện Quincy đánh giá.

Theo Parsi, nếu quân nhân Mỹ bị đẩy vào làn đạn trong cuộc xung đột đang lan rộng giữa Iran và Israel, đó sẽ là hậu quả trực tiếp và nguy hiểm nhất của việc Washington đã không gây sức ép đủ mạnh với Tel Aviv để theo đuổi lợi ích an ninh cốt lõi nhất đối với họ ở Trung Đông là tránh xung đột toàn diện.

Tổng thống Biden nhậm chức với lời hứa sẽ chấm dứt kỷ nguyên xung đột kéo dài cùng những nỗ lực tốn kém nhằm thay đổi cục diện ở Trung Đông. Nhưng những diễn biến gần đây cho thấy cam kết đó ngày càng trở nên xa vời.

Ali Vaez, giám đốc dự án Iran tại Nhóm Khủng hoảng Toàn cầu, tổ chức nghiên cứu có trụ sở tại Washington, lưu ý cách duy nhất để giải quyết vấn đề là Mỹ, quốc gia duy nhất có ảnh hưởng tới Israel, phải kiềm chế Tel Aviv.

Theo bình luận viên Gideon Rachman từ Financial Times, chính quyền Thủ tướng Israel Netanyahu đến nay cho thấy họ sẵn sàng phớt lờ mong muốn của đồng minh thân cận nhất. Thực tế này bắt nguồn từ một nghịch lý trong chính sách Mỹ.

"Chính quyền Biden có thể và thực sự đã thúc giục Israel kiềm chế ở Gaza và Lebanon. Nhưng họ cũng sẽ luôn bảo vệ Israel khỏi hậu quả của bất kỳ hành vi leo thang nào, dựa trên cam kết bao trùm là bảo vệ Israel khỏi Iran và các kẻ thù khác trong khu vực", Rachman nói. "Israel từ đó hình thành nhận thức rằng việc thách thức chính quyền Biden gần như không có rủi ro, thậm chí có thể đem lại một số lợi ích nếu họ lôi kéo được Mỹ triển khai sức mạnh quân sự chống Iran".

Vị trí Iran và Israel. Đồ họa: BBC

Khả năng Washington từ chối ủng hộ Tel Aviv trong một cuộc khủng hoảng càng giảm đi khi cuộc bầu cử tổng thống Mỹ sắp diễn ra, Rachman cho hay.

Phó tổng thống Kamala Harris, ứng viên đảng Dân chủ, ngụ ý sẽ áp dụng đường lối cứng rắn hơn với Thủ tướng Netanyahu về vấn đề Gaza. Nhưng bà cũng muốn tỏ ra kiên định và hoàn toàn ủng hộ Israel vào thời điểm nguy hiểm. Mặt khác, bà cũng không thể mạo hiểm tỏ ra mềm mỏng với Iran, quốc gia mà Mỹ có lịch sử đối địch lâu dài.

Tình hình hiện tại ở Trung Đông còn có thể là tin xấu đối với bà Harris, khi nó tạo cớ cho cựu tổng thống Donald Trump, ứng viên đảng Cộng hòa, tuyên bố rằng thế giới đã rất hòa bình trong nhiệm kỳ của ông nhưng trở nên bất ổn khi Tổng thống Biden dẫn dắt đất nước, Rachman đánh giá.

"Mỗi lần bầu cử tổng thống Mỹ diễn ra, người ta lại đồn đoán về một 'bất ngờ tháng 10' có thể xuất hiện, làm đảo lộn cuộc đua khi chỉ còn vài tuần nữa là đến ngày bỏ phiếu. Israel và Iran có thể vừa mang đến bất ngờ đó trong cuộc bầu cử năm nay", ông nói.

Vũ Hoàng (Theo NBC News, CBC, PBS, TIME)

Khi Israel chuẩn bị một cuộc tấn công trả đũa vào Iran, chính quyền Tổng thống Mỹ Joe Biden dường như chỉ đứng bên lề quan sát và không biết rõ về những gì đồng minh thân cận nhất của họ ở Trung Đông đang lên kế hoạch. Washington dường như cũng ít ảnh hưởng hơn đến các quyết định của Tel Aviv.

Các quan chức Nhà Trắng cho biết họ vẫn phối hợp chặt chẽ với những người đồng cấp Israel và hy vọng Thủ tướng Benjamin Netanyahu sẽ tính toán kỹ lưỡng về một cuộc tấn công tiềm tàng nhằm vào Iran để đáp trả cuộc tập kích mà Tehran tiến hành hôm 1/10.

Theo các quan chức Nhà Trắng, phía Israel đã nói rằng họ không cảm thấy cần phải trả đũa ngay lập tức hoặc trả đũa ồ ạt. Hai bên đã thảo luận về các mục tiêu tiềm năng, bao gồm các cơ sở dầu mỏ của Iran.

Tổng thống Biden ngày 2/10 cho biết ông phản đối bất kỳ cuộc tấn công nào vào các cơ sở hạt nhân của Iran, nhưng ngay ngày hôm sau, ông lại để ngỏ khả năng sẽ ủng hộ một cuộc tấn công như vậy.

Israel vẫn chưa đưa ra quyết định cuối cùng về việc sẽ phản ứng như thế nào nhưng trong những tuần gần đây, Nhà Trắng đã nhiều lần bị bất ngờ trước các quyết định của Tel Aviv.

Thủ tướng Netanyahu ra lệnh không kích hạ sát thủ lĩnh Hezbollah Hassan Nasrallah từ một phòng khách sạn ở New York, ngay cả khi các quan chức Mỹ tại Liên Hợp Quốc cách đó vài dãy nhà đang cố gắng ngăn chặn một cuộc chiến tranh lan rộng ở Trung Đông.

Quyết định phê chuẩn cuộc không kích ngày 27/9 được đưa ra khi lãnh đạo Israel đang ở trên lãnh thổ Mỹ mà không báo trước cho Nhà Trắng đã cho thấy sự chia rẽ ngày càng tăng giữa chính phủ của ông Netanyahu và Nhà Trắng.

Trong ngắn hạn, quyết định đơn phương của Israel về việc tấn công Iran có nguy cơ khiến chính quyền Biden vướng vào một cuộc xung đột khu vực không được được dư luận ủng hộ. Về lâu dài, đây có thể là một điểm nóng khác để những người chỉ trích có lý do cho rằng Mỹ đã trao cho Israel quá nhiều sự tự do và không sử dụng ảnh hưởng của mình để kiềm chế đồng minh.

Đầu tháng 9, đặc phái viên Nhà Trắng Amos Hochstein đã gặp các quan chức Israel tại hầm trú ẩn của quân đội Israel ở Tel Aviv để thúc giục họ không tiến hành một chiến dịch quy mô lớn chống lại Hezbollah ở Lebanon. Ông cố gắng thuyết phục họ hãy để nỗ lực của Mỹ làm trung gian cho một thỏa thuận nhằm đẩy Hezbollah ra khỏi xa biên giới phía Bắc Israel, có cơ hội.

Nhưng chỉ vài giờ sau cuộc gặp của đặc phái viên Hochstein với Thủ tướng Netanyahu, hàng trăm máy nhắn tin do các chiến binh Hezbollah sử dụng đã phát nổ trên khắp Lebanon. Ngày hôm sau, hàng trăm bộ đàm của nhóm này tiếp tục phát nổ.

Một loạt các cuộc không kích của Israel diễn ra sau đó đã khiến hơn 500 người thiệt mạng trong ngày đẫm máu nhất ở Lebanon trong gần hai thập kỷ.

Giới chức Mỹ nói rằng họ không được thông báo trước về các vụ nổ máy nhắn tin và nhấn mạnh Washington không liên quan đến vụ việc này.